TỪ GIẢ KIM SANG HÓA HỌC (L. BRUNSCHVICG, 1931)
Cập nhật ngày 28-4-2019
Từ khóa: Hóa học  Lịch sử

C1

 TỪ THUẬT GIẢ KIM SANG HÓA HỌC:
SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT CUỘC
CẢI ĐẠO TINH THẦN
(1931)

Tác giả: Léon Brunschvicg[1]*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Nếu khoa học có khả năng phân biệt đúng với sai, nó phải là một cái gì đó khác hơn, so với loại thao tác của ma thuật hoặc kỹ thuật. Và nếu về điểm này sự mơ hồ còn kéo dài, thì đấy là do một hiểu lầm cũng dễ xua tan mà thôi. Đối với một người theo dõi lịch sử khoa học từ ngọn về nguồn, chẳng hạn như khi ông ta tập trung cố tách rời,  trong mớ bòng bong giả kim, cái nào là công thức huyễn hoặc đã bị thời gian đào thải, cái nào là dữ liệu thực tế được giữ lại, thì tất cả mọi thứ dường như đã diễn tiến như thể khoa hóa học rõ ràng vừa thoát thai từ thuật giả kim[2], bởi một mạng lưới giao thông liên tục và nhìn thấy được. Nhưng điều này không hề có nghĩa là thuật giả kim, nhờ chứa đựng một số luận điểm có giá trị khoa học, nên chính nó cũng có giá trị khoa học. Một học giả đúng nghĩa không chỉ biết rằng cái gì đúng là đúng, mà còn là người nhận ra rằng điều không đúng là không đúng[3]. Thế nhưng nhà giả kim không nghi ngờ gì điều này, cho nên ta có thể chắc chắn rằng họ cũng không nghi ngờ gì điều kia.

(...) Thực ra, ta không được phép nói rằng mình biết điều gì ngay cả khi ta đang làm nó mà không biết rằng mình đang làm. Sôkratês từng dạy rằng: biết chính là có khả năng dạy lại.

(…) Như vậy, sự vắng mặt của suy tư giải thích rằng không hề có một kỹ thuật thuần túy nào thoát thai từ ma thuật. Các nhà thiên văn trước thiên văn học, các y sĩ trước y học, các nhà hóa học trước hóa học… có vẻ là thầy phù thủy hơn là học giả. Cách họ thao tác, ngay cả khi họ đã dựa lên kinh nghiệm một cách trực tiếp và hiệu quả, sẽ đông cứng trong truyền thống của một nơi bảo quản[4].

(...) Như vậy, sự đảo ngược quyết định nằm ở đấy, giữa đứa con đẻ của ham muốn là niềm tin, nghĩa là giữa cái khách quan sai lầm dựa trên tính mục đích của một quyền lợi trước mắt, và cái khách quan đích thực mà chỉ sự từ bỏ lợi ích của con người mới cho phép đạt tới. Cùng một sự dửng dưng với cái ta – thứ đã làm nên sự hào phóng của con người – chủ trì mọi cuộc cách mạng khoa học. Sự nghiệp của một Pythagoras*, một Kopernik*, một Pasteur*… cũng dẫn đến kết luận rằng, để vượt thoát cái thành kiến ​​kỹ thuật[5], để đạt tới cấp khoa học «một sự cải đạo thực sự về tinh thần[6] của con người là thiết yếu». 

Léon Brunschvicg,
Về Sự Tự Biết
 (De la connaissance de soi,
Paris,  Alcan, 1931, tr. 67-70).


[1] Léon Brunschvicg (1869-1944): triết gia, sử gia và triết gia khoa học Pháp. Tác phẩm chính: La Modalité du jugement (1900); Les Étapes de la philosophie mathématique (1912); L’Expérience humaine et la causalité physique (1922);  Les Âges de l’intelligence (1927); Le Progrès de la conscience dans la philosophie occidentale (1927); La Raison et la religion (1939).

[2] Sau vật lý học rất lâu, hóa học mới được xem là khoa học vào cuối thế kỷ XVIII, nhờ các công trình của Lavoisier. Nhưng do suốt thế kỷ XVII, thuật giả kim nhường chỗ dần cho khoa hóa học, nhiều sử gia tưởng nhìn thấy giữa hai  bộ môn này chỉ một khác biệt về mức độ, như thể thuật giả kim đã từ từ trút bỏ loại thần chú huyền bí của mình để đạt tới sự nghiêm túc và chính xác.

[3] Nói cách khác, cái làm nên tính khoa học của một công trình nghiên cứu, trước hết, là sự sở hữu một tiêu chuẩn cho phép phân biệt cái đúng với cái sai. Bằng không, ta chỉ phát hiện ra sự thực một cách ngẫu nhiên, mà lúc đó cũng không ngờ rằng mình đã làm đúng.

[4] Ở trường hợp thuật giả kim, đây là một thực tiễn huyền bí có từ thời Trung cổ. Huyễn thuật này ra sức kết hợp các suy đoán thần bí với loại công thức được cẩn mật giữ kín, hòng phát hiện ra hòn đá triết gia nổi tiếng – cái có khả năng biến đổi các kim loại tầm thường thành vàng! Làm thế nào cái lúc đầu chỉ là một thứ biết-làm, thần cảm hay phù phép phù thủy, không thể được tổng quát hóa, không cho phép tiên đoán, cuối cùng lại đạt tới quy chế khoa học được?

[5] Thứ thành kiến khiến chúng ta luôn luôn tìm kiếm sự cải tiến về điều kiện sống (tiện nghi và sung túc) chứ không phải sự tiến bộ về chân lý.

[6] Nghĩa là theo Brunschvicg, bước chuyển đổi này là kết quả, không phải của một sự cải tiến dần dần về phương pháp, mà của một sự đổi hướng thực sự trong tâm trí các học giả, một «sự đảo lộn toàn diện về ý tưởng chân lý».

CHUYÊN TRANG CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU Nguyễn Văn Khoa