VẬT LÝ HỌC MỚI & PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM (R. BLANCHÉ, 1969)
Cập nhật ngày 15-08-2020
Từ khoá:  Vật lý học – Triết lý ; Thực nghiệm (Phương pháp)
C2

SỰ XÂY DỰNG
KHOA VẬT LÝ HỌC MỚI VÀ
PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
(1969)

Tác giả : Robert Blanché*
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Đây là bản dịch bài dẫn nhập của Robert Blanché vào Q. 1 - Sự Xây Dựng Phương Pháp Thực Nghiệm (L’Instauration de la Méthode expérimentale) của Tuyển tập Phương Pháp Thực Nghiệm Và Triết Lý Của Khoa Vật Lý Học (La Méthode expérimentale et la philosophie de la physique) do chính ông tuyển chọn, giới thiệu, và xuất bản (Paris, A. Colin, 1969).

Bên cạnh những chú thích của tác giả, các tiểu tựa, và một số chú thích khác về niên đại và thời điểm của người dịch (có ký tên NVK) cũng được thêm vào, hoặc ngay trong bài, hoặc ở cuối bài, nhằm giúp bạn đọc theo dõi bản dịch dễ dàng hơn.

*

Sự đề bạt môn vật lý lên hàng khoa học, theo nghĩa hiện nay ta hiểu từ này, gắn liền với một biến đổi sâu sắc trong cách quan sát và tra vấn tự nhiên. Bất chấp tinh thần khoa học đáng phục của họ, người Hy Lạp cổ đại chưa hề thực thi phương pháp thực nghiệm, ít ra một cách có hệ thống, và ta chỉ tìm thấy ở Hy Lạp một vài phác thảo hiếm hoi mà cái hoàn chỉnh nhất có lẽ nằm nơi những công trình của Arkhimêdês* (khg 287-212 tCn). Các hệ thống triết học lớn đương thời không thúc giục đi theo đường hướng này. Chủ nghĩa duy toán học của Pythagoras* (khg 570-495 tCn) và Platôn* (khg 428-347 tCn) chẳng mấy chốc đã biến thoái thành một thứ thần bí số học. Ở cực trái ngược, cả Aristotelês* (384-322 tCn) lẫn các triết gia Khắc Kỷ (khg 300 tCn-529 sCn) đều không chiếu cố đến toán học trong những suy tư của họ về tự nhiên. Và cuối cùng, nếu nguyên tử luận của Dêmokritos* (khg 460-370 tCn), và phần kế thừa ông nơi các đệ tử của Epikouros* (341-270 tCn) có mở đường vào cách giải thích thiên nhiên theo kiểu cơ học đi nữa, nó cũng vẫn bỏ quên dụng cụ toán học.

I – THẨM ĐỊNH BẤT CẬP VỀ ĐẶC TRƯNG CỦA KHOA VẬT LÝ HỌC MỚI

1 – VẬT LÝ HỌC MỚI, KHOA HỌC THỰC NGHIỆM  CHĂNG?

a) Kinh nghiệm trong khoa học của Aristotelês và Bacon

Bởi đừng bao giờ để bị ngôn từ huyễn hoặc mà tưởng rằng cái mới của phương pháp thực nghiệm chỉ có nội dung đơn giản là sự phó thác cho kinh nghiệm giác quan. Người xưa biết quan sát, thậm chí quan sát với độ chính xác cao, như nền thiên văn học của họ đã chứng minh. Trong bức tranh tường của Raphaël[1]*, tác giả đã thể hiện Aristotelês với ngón tay chỉ thẳng xuống đất, như biểu trưng cho tư tưởng của triết gia. Thực vậy, không những nhận thức luận của Aristotelês dành cho kinh nghiệm một giá trị cao – «chẳng có gì trong trí thông minh mà lại không nằm nơi cảm thức trước (Nihil est in intellectu quod non prius fuerit in sensu»), như những kẻ tiếp nối ông thời Trung Cổ sẽ nói –, mà cả hệ thống tự nhiên của ông cũng giàu nội dung kinh nghiệm. Và thực tế là cái hệ thống đó hoàn toàn ăn khớp với kinh nghiệm, tất nhiên, không phải là cái mà chúng ta gọi là kinh nghiệm sau gần bốn thế kỷ vật lý thực nghiệm – bởi đây là thứ kinh nghiệm đã được chính nền khoa học của ta tạo hình – mà với cái đã có thể là những bài học đầu tiên về kinh nghiệm cho một đầu óc tiền khoa học, để nói một cách chính xác. Ngay cả ngày nay, dù sao ta cũng có thể khiến cho một đứa trẻ chưa từng được dạy dỗ về khoa học chấp nhận những luận điểm cốt yếu trong các lý thuyết về vật lý học và vũ trụ học của Aristotelês dễ dàng hơn là những cái tương ứng trong vật lý học hiện đại, bởi vì thật ra chúng thích nghi dễ dàng hơn với kinh nghiệm trực tiếp của nó, như các quan điểm sau chẳng hạn: trái đất là trung tâm của vũ trụ, sự đối lập tuyệt đối giữa trên và dưới, không khí và lửa là nhẹ, chuyển động tự nhiên khác với chuyển động do một lực tác động, chuyển động ngừng khi lực tác động ngừng, v. v… Các nhà Kinh Viện* Trung cổ, những người truyền dạy thứ vật lý học này, không phải đều là người ngu hay kẻ mù[2] hết cả. Điều đúng thật duy nhất là, nói một cách tổng quát, họ có thiên hướng nhìn thiên nhiên qua những cuộn sách của Aristotelês, và chỉ giải thích mọi sự kiện theo học thuyết của ông, cho dù phải gạt bỏ những cái không thể rút gọn vào đó hoặc có vẻ như bác bỏ nó. Thế nên, tốt hơn ta nên mời gọi họ, như chính Aristotelês từng làm, là hãy đọc thẳng vào cái mà sau [René] Descartes (1596-1650)* gọi là «quyển sách lớn của thế giới», và hãy dùng sự kiện để đánh giá lý thuyết. [Cesare] Cremonini (1550-1631)*, đệ tử của Aristotelês và địch thủ của Galileo Galilei (1564-1642)*, chẳng đã từng từ chối nhìn vào kính viễn vọng như khi được mời, để thấy tận mắt rằng các thiên thể không hề là «bất khả suy hoại», bởi vì theo ông ta, điều đó chỉ làm ông ta điên đầu hay sao? Galileo có lần đã viết cho [Johannes] Kepler (1571-1630)*: «Ông sẽ nói sao với các triết gia hàng đầu của Nhà Trường đây, những kẻ mặc dù đã được mời gọi đủ cách, vẫn ngoan cố từ chối nhìn lên các hành tinh hay Mặt Trăng, hoặc ngay cả nhìn vào kính viễn vọng, và bằng cách đó cuồng bạo khép chặt cặp mắt của mình trước ánh sáng chân lý? Loại người này tưởng triết học là những quyển sách như Aeneis* hay Odysseia* chẳng hạn[3], rằng chân lý phải được truy tìm, không phải trong thế giới và trong thiên nhiên, mà theo chính ngôn từ của họ, bởi sự đối chiếu các văn bản. Ông sẽ cười vỡ bụng nếu được nghe triết gia đáng kể nhất của Nhà Trường này của chúng ta cố gắng dẹp bỏ các hành tinh mới trên trời bằng lập luận lô-gic, như thể chúng là những công thức ma thuật thần diệu»[4].

Đây là những trường hợp quá đáng, hầu như biếm họa. Nhưng nếu chúng ta xét các cuộc tranh luận mà những đổi mới của Galileo đã khơi dậy, ta thấy rằng, ngay trong các đối thoại[5] của ông, chính kẻ phát ngôn cho các triết gia thuộc trường phái Aristotelês là Simplicio[6] đã bênh vực phương pháp thực nghiệm của Thầy mình chống lại cái mà ông ta gọi là phương pháp toán học của Galileo như thế nào. Điều mà các nhà Kinh Viện chê trách Galileo, chính là ông đã lạm dụng sự trừu tượng hóa toán học mà không quan tâm đến sự phong phú và đa dạng của cái cụ thể, chẳng hạn như đòi giam tất cả vào cùng một công thức – quy luật về sự chuyển động của vật thể – mà không phân biệt sự khác nhau giữa quỹ đạo của một mũi tên, sự di chuyển của một chiếc xe, đường bay của chim, v. v[7]… Ngược lại, nhất trí với Aristotelês, họ dựng lên một sự phân biệt rạch ròi giữa toán học – môn học chỉ liên quan đến loại sự vật (l)ý tưởng – với vật lý học – môn học về loại sự vật hiện thực –, và trong mắt họ, đòi xử lý loại sau theo kiểu đã xử lý loại trước là một sự giản lược hóa đáng bị lên án. 

b) Kinh nghiệm và lý luận trong vật lý học của Galileo

Chắc chắn là Galileo có mắt nhìn, và những quan sát nổi tiếng của ông về thiên văn qua kính viễn vọng là những cú táng nghiêm túc đầu tiên nện vào nền vũ trụ học và vật lý học của Aristotelês. Nhưng đấy là về thiên văn học mô tả. Trong những suy biện của Galileo về cơ khí và vật lý học, lý luận đóng một vai trò lớn hơn là sự quan sát trực tiếp, và chính nó mới là yếu tố quyết định. Người ta thường ghi nhận là sự thu đạt nguyên lý quán tính, nền tảng của cơ học hiện đại, và qua nó, của sự diễn giải cơ học về thiên nhiên, không thể nào chỉ dựa trên sự quan sát đơn thuần, hay ngay cả trên bất cứ một thí nghiệm nào. Hãy nghĩ tới tất cả những khó khăn và thời gian phải bỏ ra để vượt qua dần dần, từng cái một, những gợi ý trái ngược của kinh nghiệm trước mắt. Ngay chính Galileo, dù đã góp phần rất lớn vào việc thiết lập quy luật đó, cũng chưa hiểu nó một cách hoàn toàn đúng đắn. Nói một cách tổng quát, các thí nghiệm mà ông đưa ra, thường chỉ là những «thí nghiệm bằng tư duy»[8] đơn thuần. Chẳng hạn, ông từng bàn xem chuyện gì sẽ xảy ra, nếu ta thả một hòn đá rơi từ đỉnh cột buồm xuống khoang thuyền, trong trường hợp con thuyền di chuyển, và trong trường hợp nó đứng yên; nhưng thí nghiệm trên chỉ được [Pierre] Gassendi (1592-1655)[9]* thực sự thực hiện vào năm 1641.

Một thí nghiệm khác, mà chúng tôi mượn từ tác phẩm của [Herbert] Butterfield (1900-1979)[10], minh họa sự lệ thuộc này của kinh nghiệm vào lý luận toán học trong nền vật lý học mới. Chúng ta đều biết câu chuyện về thí nghiệm mà Galileo có thể đã làm, là thả từ đỉnh tháp ở Pisa xuống hai vật có trọng lượng rất chênh lệch, và bằng thí nghiệm này, phá đổ luận điểm của trường phái Aristotelês, theo đó vật nặng hơn sẽ rơi nhanh hơn. Thế nhưng đây chỉ là một huyền thoại. Đúng là thí nghiệm trên sau đã được thực hiện, nhưng bởi [Giorgio] Coresio (1570-1659)[11], người đệ tử của Aristotelês này tuyên bố đã nhận thấy rằng vật nặng hơn chạm đất trước[12], và do đó, quan điểm của Aristotelês là đúng. Được xuất bản tại Firenze, tác phẩm của Coresio không thể lọt qua mắt Galileo. Thế mà, theo như chúng tôi biết, ông ta không hề bận tâm tranh cãi về chuyện đúng hay sai của cái kết quả được thuật lại trong đó. Bởi vì lý trí đã cho Galileo biết một bài học khác[13]. Nó cho ta biết rằng – ở đây, ông  dùng lại một luận cứ từng được những người đi trước ông viện dẫn – hai viên gạch nặng bằng nhau sẽ luôn luôn rơi với cùng một vận tốc, dù chúng có được buộc vào với nhau hay không. Butterfield lưu ý: «Những người đi trước Galileo đã lập luận theo kiểu của họ để giải đáp vấn đề đặc thù này, song cả họ lẫn Galileo đều không cho thấy họ sẵn sàng thay đổi kết luận của mình chút nào, nếu chỉ vì lý do đơn giản là phương pháp thực nghiệm đã không xác nhận phán đoán của họ»10.  

Cần phải hiểu rằng, với một khoa học được diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học, phán quyết của kinh nghiệm chỉ có nghĩa khi nó mang lại một giải đáp chính xác cho vấn đề được đặt ra; bởi nếu giới hạn sai số (marge d’erreur) còn khá rộng, thì làm sao quyết định xem kết quả của cuộc thí nghiệm phải được diễn giải như thế nào – như một giá trị xấp xỉ, hoặc như một phủ nhận hay một cải chính? Thế nhưng, trong khi sự xây dựng dần dần một khoa học toán hóa giả định phải có những dụng cụ đo lường chính xác như vậy, thì ngược lại, sự chế tác ra loại dụng cụ như thế cũng giả định một khoa học đã được kiến tạo. Vì vậy, không nên ngạc nhiên nếu những thí nghiệm liên tục để chứng thực bằng kinh nghiệm luật rơi của vật nặng mà Galileo đã phát biểu – theo năm tháng, đây là cái đầu tiên trong số các luật định lượng của cơ học – đều còn chưa được xác nhận như nhau suốt hơn nửa thế kỷ, và phải đợi đến [Christiaan] Huygens (1629-1695)* mới bịt miệng được hết những kẻ bi quan và đối lập. Đúng như Serge Moscovici (1925-2014)* từng viết, đấy chính là vì ở đầu thế kỷ  XVII này, «vấn đề chưa phải là thực hiện một cuộc thí nghiệm, mà là thiết lập những điều kiện khiến cho việc làm thí nghiệm là khả thi»[14], chẳng hạn như xác định loại đồng hồ đánh đúng từng giây, một trong những việc trọng đại ở thời điểm đó.

Cho nên ta không nên tưởng tượng, như theo một quan điểm quá giản lược, rằng cái làm nên bản chất của phương pháp thực nghiệm và tính mới mẻ của khoa học hiện đại so với nền khoa học xưa, chính là sự thay thế suy luận bằng kinh nghiệm. Thật ra, nội dung của sự thay đổi là một phương thức kết hợp suy luận với kinh nghiệm mới: một cách thức suy luận mới về loại sự kiện kinh nghiệm, [song song với] một cách thức chất vấn kinh nghiệm mới, để vừa buộc nó phải phục tùng, vừa cho phép nó kiểm soát suy luận. 

2 – VẬT LÝ HỌC MỚI, KHOA HỌC QUY NẠP CHĂNG?

a) Quy nạp theo nghĩa của khoa học chứng minh[15]

Sau từ thực nghiệm được dùng để đặc trưng hóa khoa học hiện đại, quy nạp cũng là một từ khác có rủi ro dẫn ta đi lạc. Do ý thức về sự tất yếu cho một khoa học về hiện thực là nó phải khởi đi từ kinh nghiệm để leo ngược dần lên tới các định đề, nghĩa là đi theo chiều chính xác trái ngược với con đường mà khoa học chứng minh phải trải qua, [Francis] Bacon (1561-1626)* tự nhiên đã giữ lại cái tên quy nạp để chỉ lối tiếp cận bằng cách đi giật lùi này (thoái triển), bởi đây chính là từ mà Aristotelês đã dùng để chỉ lối suy luận đi ngược chiều với trật tự bình thường của tam đoạn luận. Rồi cũng tự nhiên không kém, sau đó người ta tiến dần tới chỗ gọi khoa học thực nghiệm là khoa học quy nạp, để đối lập nó với khoa học chứng minh hay khoa học nguyên lý-diễn dịch (catégorico-deductive). Tuy nhiên, đây là một định danh đáng tiếc, bởi nó che giấu một sự kiện căn bản: sự đối lập giữa khoa học hiện đại với khoa học cổ điển không nằm ở sự đối lập giữa quy nạp với diễn dịch, mà nằm nơi sự khác biệt giữa hai lối hiểu các thao tác trên trong tương quan giữa cái này với cái kia. Tất nhiên, chúng vẫn luôn luôn còn là hai thao tác ngược chiều. Chỉ khác là, trong khi ở khoa học của Aristotelês và các nhà Kinh Viện, diễn dịch và quy nạp được vận hành trên bình diện logoi, vượt qua một bậc thang khái niệm theo chiều tổng quát mỗi lúc một hơn, hoặc mỗi lúc một kém, thì tư duy khoa học hiện đại lại vận hành trên bình diện mathêmata. Với nó, giống như diễn dịch không thể bị rút gọn vào tam đoạn luận, quy nạp cũng không thể bị rút gọn vào sự tổng quát hóa kinh nghiệm, nếu ta muốn giữ lại cho từ sau cái khí cốt phương pháp của nó. Đấy là điều Bacon không hề nhìn thấy, bởi vì, như Émile Bréhier (1876-1952)* viết: «Bacon chưa bao giờ biết thứ trí tuệ nào khác, ngoài cái trí năng trừu tượng và phân loại đến từ Aristotelês thông qua người Ả Rập và Thánh Thomas [Aquinas, 1225-1274]*. Ông ta không biết thứ trí năng mà Descartes* đã tìm thấy trong công việc, thông qua phát minh toán học»[16]. Nhưng những người vận dụng phương pháp mới trong vật lý học thì cảm nhận được ngay sự khác biệt. Khi bị Vicenzo di Gracia (15..?-16..?)[17] chê bai ông đã không áp dụng đúng các quy luật của lối lập luận quy nạp, Galileo trả lời bằng cách nhấn mạnh trên sự hư ảo của một lối quy nạp như vậy: vô ích nếu nó thao tác trên một tập hợp hữu hạn sau khi đã liệt kê mọi trường hợp cá biệt, vô hiệu lực nếu nó muốn mở rộng đến một tập hợp vô hạn[18]. Cái mà phương pháp thực nghiệm lấy làm mẫu mực, đấy không phải là lối quy nạp của các ákholoi, mà là lối phân tích của các nhà kỷ hà học [hình học]. Phương pháp phân tích và tổng hợp[19], là hai phương pháp bổ túc nhau của mọi khoa học, của vật lý thực nghiệm cũng như của toán học chứng minh.

b) Quy nạp theo nghĩa của khoa học thực nghiệm

Như vậy, từ khi ta bắt đầu gọi các khoa học thực nghiệm là khoa học quy nạp, từ quy nạp mang một nghĩa kép: để nói ngắn gọn, một nghĩa của các nhà lô-gic học, và một nghĩa của các nhà bác học. Bên cạnh cái nghĩa truyền thống vẫn còn được lưu giữ, xuất hiện một nghĩa mới để chỉ phương thức xây dựng các môn học này, mà do ảnh hưởng của ý tưởng cũng như ngôn ngữ của Bacon, không phải lúc nào cũng dễ phân biệt được với nghĩa cũ. Trong thế kỷ XIX, [John Stuart] Mill (1806-1873)* và [William] Whewell (1794-1866)* từng có một cuộc tranh cãi dai dẳng về vấn đề này: Mill viện dẫn «các tác giả có uy tín và thẩm quyền», còn Whewell thì cho rằng cần phải định nghĩa một từ theo cách nó được sử dụng, do đó, ngày nay ta phải hiểu quy nạp là thủ tục (trình tự và phương pháp làm việc[20] = procedure) của các khoa học gọi là quy nạp, ngay cả khi cái quy trình đó hết còn phù hợp với nghĩa cũ của nó. Trong hai nghĩa này, cái nào là đúng? Có lẽ câu hỏi là vô bổ. Chỉ cần, tuy đây là điều kiện thiết yếu, ý thức rõ ràng về tính hai mặt này, và đừng từ sự kiện đơn giản là các khoa học về hiện thực ngày nay được gọi là quy nạp, mà kết luận một cách ngớ ngẩn rằng ta có thể đánh đồng phương pháp của chúng với phép quy nạp xưa của các nhà lô-gic học.

Hiển nhiên là việc nghiên cứu không hề được thực hiện bằng sự tổng quát hóa dữ kiện từ những quan sát. Nếu như thế thì thật là quá dễ! Tôi nhận thấy ánh sáng khúc xạ khi nó xuyên chéo từ không khí sang thủy tinh, rồi từ thủy tinh sang nước, và ngược lại, nên tôi kết luận rằng, cho tất cả mọi môi trường trong suốt, sự di chuyển từ cái này sang cái kia làm cho ánh sáng khúc xạ. Được thôi! Nhưng làm nổi thứ khám phá tương tự nằm trong tầm tay của bất cứ ai; nó chỉ dẫn vào phòng đợi của vật lý học. Muốn bước vào đây, đâu chỉ tổng quát hóa những quan sát là xong, mà còn phải làm, chỉ cần trên một trường hợp cũng đủ, một quan sát chính xác các biến thiên của góc khúc xạ theo góc tới, rồi từ đó tìm ra cái công thức toán học cho ta quan hệ chính xác của chúng, và cho phép ta tính ra góc khúc xạ khi biết góc tới, cùng với chỉ số khúc xạ. Việc này khó hơn sự tổng quát hóa tầm thường nhiều, và bằng chứng là sự kiện cả Klaúdios Ptolemaîos (khg 100-170)*, cả người Ả Rập, lẫn Kepler* đều không tìm ra, mặc dù họ đều có đủ thông tin cần thiết để tìm công thức này, và đều cố gắng phát hiện ra nó. Để lấy một thí dụ khác, thường được Whewell nhắc tới: khi Kepler công bố rằng quỹ đạo của Sao Hỏa có dạng ê-lip, khám phá quyết định đã được thực hiện, tuy rằng đây chỉ là một phán đoán cá biệt; sau đó, việc bảo đảm rằng quy luật này có giá trị cho mọi hành tinh, nghĩa là sự tổng quát hóa nó, chỉ còn là phần việc của những tiều phu so với việc phát hiện.

Như vậy, mặc dù hai từ thực nghiệm và quy nạp đều rất thông dụng, và ngày nay rất khó mà ngăn cấm việc sử dụng chúng để định danh phương pháp của môn vật lý khoa học hiện đại, ta chỉ có thể giữ lại các từ trên với rất nhiều thận trọng, sau khi đã làm sáng tỏ ý nghĩa của mỗi từ.

II - ĐẶC TRƯNG THỰC SỰ CỦA KHOA VẬT LÝ HỌC MỚI

Đâu là những nét đối lập giữa phương pháp mới và cái phương pháp mà ta vẫn dùng cho tới [thế kỷ XVII] trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên? Ta có thể rút gọn chúng vào ba điểm sau đây, tuy không cái nào tự nó là hoàn toàn mới cả, song sự kết hợp mật thiết cả ba đã tạo nên tính độc đáo của phương pháp thực nghiệm trong vật lý học hiện đại: sự sử dụng lý luận giả thuyết-diễn dịch (hypothetico-déductive), sự xử lý kinh nghiệm bằng toán học, và sự cầu viện tới thí nghiệm.

1 – LỐI LẬP LUẬN GIẢ THUYẾT-DIỄN DỊCH

a) Từ nguyên lý-diễn dịch đến giả thuyết-diễn dịch

Lối diễn dịch từ giả thuyết (déduction hypothétique = giả thuyết-diễn dịch hay diễn dịch-giả thuyết) khác với lối diễn dịch từ nguyên lý (déduction catégorique = nguyên lý-diễn dịch hay diễn dịch-nguyên lý) ở chỗ, thay vì khẳng định nguyên lý là đúng để truyền đạt sự chắc chắn của nó đến các hệ quả, nó chỉ cần đặt cái nguyên lý này ở điểm khởi đầu – đấy là nghĩa đen của từ hypothesis[21] – đơn giản như một định đề* (postulat) mà giá trị chân lý còn để treo đấy, rồi từ đó rút ra những hệ quả, tất nhiên là những hệ quả này cùng tham gia với nguyên lý vào cái khả năng trung tính là có thể đúng hoặc sai. Nói cách khác, nó chỉ quan tâm đến tính chặt chẽ hình thức của toàn bộ lập luận mà không lưu ý đến sự thật vật chất của từng mệnh đề trong đó. Điều này không ngăn cản là, sau đó, sự đúng hoặc sai của các hệ quả có thể được viện dẫn – nếu ta có thể nhận biết nó bằng cách nào khác – để xác định giá trị chân lý của giả thuyết từ đó chúng được rút ra.

Một lối lập luận như thế là thường xuyên ở các nhà toán học Hy Lạp, và Platôn đã từng lập thuyết về nó, rồi sau được Pappos* thành Alexandreia (khg 290-350)[22]* lấy lại. Thật vậy, phương pháp phân tích, với chứng minh bằng phản chứng như trường hợp đặc biệt, chung quy dẫn về lập luận này. Rồi từ toán học nó nhảy sang thiên văn học, và thậm chí trở thành phương pháp tiêu biểu nhất của thiên văn học hình thức hay toán học. Cần phải nhắc lại ở đây rằng, vào thời Cổ đại và Trung cổ, thiên văn học được quan niệm theo hai hướng khác nhau. Trong khi Aristotelês chẳng hạn tìm cách giải thích sự vận hành của các tinh tú bằng loại nguyên do hiện thực, và như vậy sáp nhập ngành thiên văn vào vật lý học; những người theo quan điểm của Platôn khác xem nó như một khoa học thuần túy toán học, nên sau khi đã thu thập những quan sát, thấy chỉ còn nhiệm vụ là tưởng tượng ra các tổ hợp hình học thế nào để tính cho đúng những dữ kiện của quan sát, hay, nói theo kiểu của họ, «cứu giữ những hiện tượng» (sôzein ta phainomena)31, nhưng không cho các kiến trúc toán học đó một tầm hiện thực nào cả. Những vòng tròn của họ chẳng là gì khác hơn là các đường vẽ hình học, trong khi Aristotelês cho các hình cầu bằng pha lê của ông ta là những bộ phận thực sự của guồng máy thiên văn. Phương pháp của họ rõ ràng có hai thời đoạn. Trước tiên là một phương pháp tiến hành thoái triển; ở đây, nhà bác học phải biểu hiện được khả năng sáng tạo và sự tinh nhạy của mình: trước các hiện tượng, phải tạo ra giả thuyết nào cho phép ta tìm lại được những hiện tượng đó như hệ quả. Mô tả phương pháp này, Proklos (412-485)[23]* nói: «Các nhà thiên văn không kết luận hệ quả từ giả thuyết như người ta làm trong các khoa học khác; nhưng họ lấy các kết luận làm khởi điểm, và nỗ lực dựng lên những giả thuyết từ đó các kết quả thích ứng với kết luận của họ nhất thiết phải là hệ quả». Tuy nhiên, để bảo đảm chắc chắn đúng như thế, một lối tiến hành thứ hai rõ ràng là cũng cần thiết, chính xác là sự suy ra các hệ quả từ giả thuyết, bằng một lập luận chặt chẽ, nhằm đối chiếu chúng với những sự kiện. Đầu tiên là giả thuyết, sau đó là diễn dịch: đấy là hai thời đoạn kế tiếp nhau của phương pháp tiến hành, điều này biện minh cho cái tên phương pháp giả thuyết-diễn dịch mà các nhà khoa học hiện đại đặt cho nó (Mario Pieri, 1860-1913)[24].

Theo sự thú nhận của chính những kẻ áp dụng phương pháp trên, tính bất cập của nó chính là dường như nó chỉ có thể dẫn đến những hư cấu ít nhiều tài tình, chứ không phải là những chân lý được xây dựng vững chắc. Bởi vì, nếu trong một lập luận đúng về mặt hình thức, sai lầm của hệ quả cho phép ta đánh giá là có một nhầm lẫn đâu đó trong nguyên lý, quy tắc này không tác động cùng chiều cho chân lý: hệ quả đúng không bảo đảm là nguyên lý cũng đúng, cái đúng có thể được suy ra từ cái sai, hay như người ta nói, «từ cái sai có thể suy ra tất cả». Sắt là chất cháy được, trang sách này bằng sắt, vậy trang sách này cháy được. Nói cách khác: trong khi nguyên lý quy định chính xác những hệ quả, thì ngược lại, hệ quả lại để những nguyên lý từ đó chúng được rút ra trong tình trạng tương đối bất định. Cho một tập hợp mệnh đề, ta có thể tìm ra nhiều và ngay cả, trên lý thuyết, vô số hệ thống nguyên lý cho phép ta từ đó suy ra tập hợp mệnh đề trên. Người xưa hoàn toàn biết rõ những đặc tính lô-gic của tương quan nguyên lý – hệ quả này, và các nhà thiên văn trong dòng toán học bày tỏ không giấu giếm tính chất giả tạo của những kết quả mà họ thu được, như Proklos* đã nói công khai. «Từ những giả thuyết sai, người ta có thể rút ra một kết luận đúng, và sự phù hợp của kết luận này với các hiện tượng không phải là bằng chứng đủ để cho phép ta xác lập sự đúng đắn của giả thuyết». Vì vậy nên những giả thuyết khác nhau mà người ta có thể đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng không loại trừ nhau. Nên Simplikios (490-560)[25]* lưu ý: «Hiển nhiên là sự kiện có những ý kiến khác nhau về [trong] các giả thuyết không thể bị chê trách. Thật vậy, điều mà ta muốn biết là, khi đã chấp nhận một số giả định nào đó, ta có thể giữ lại [giải thích] những gì hiện ra hay không. Cho nên chẳng có lý do gì phải ngạc nhiên khi các nhà thiên văn khác nhau lấy nhiều giả thuyết khác nhau như khởi điểm nhằm tìm cách cứu giữ những hiện tượng[26]». Trường hợp đã gây ấn tượng sâu đậm nhất cho các nhà thiên văn xưa là chứng minh của Apollônios[27]* thành Pergê (khg 262-190 tCn), khi ông thiết lập qua một lý luận hình học sự tương đương giữa hai giả thuyết lệch tâm (excentriques) và giả thuyết vòng ngoài (épicycles)[28], và sự tương đương này sẽ giúp cho (H)Ipparkhos (190-120 tCn)[29]* khỏi phải chọn một trong hai giả thuyết trên. Như vậy, sự kiện có nhiều giả thuyết về cùng một loại hiện tượng không phải lúc nào cũng là một nhược điểm; đôi khi nó còn khiến người ta mừng rỡ như một sự phong phú, như ta thấy ở Epikouros* (trong thư gửi Pythoklês) chẳng hạn. Khi tìm mọi giải thích có thể có cho nhiều hiện tượng thiên văn học khác nhau, ông phản đối những người «thay vì chỉ cần chăm chú theo cái phương pháp duy nhất khả thi, đã rơi vào loại ý kiến vô bổ, bởi vì họ nghĩ rằng các hiện tượng thiên văn chỉ có thể nhận một giải thích duy nhất mà thôi, nên họ vất bỏ mọi giải thích khác mà ta có thể quan niệm được, và vì vậy, đặt tư duy trước một cái gì mà nó không thể hiểu nổi: tại sao cứ phải áp đặt một giải thích duy nhất và loại trừ mọi giải thích khác?»[30].

Tính phi thực tế của một khoa học như thiên văn còn có thể được nêu lên để biện minh cho sự táo bạo của giả thuyết được đưa ra. Thí dụ nổi tiếng nhất nằm trong bức thư mà [Andreas] Osiander (1498-1552)[31]* viết để giới thiệu tác phẩm Sự Vận Hành Của Các Thiên Thể* (De revolutionibus orbium coelestium) của [Mikolaj] Kopernik (1473-1543)*, khi ông giả vờ nhìn giả thuyết nhật tâm (mặt trời trung tâm) đơn giản như một mẹo toán. Ông ta viết: «Công việc đặc thù của nhà thiên văn, trước hết là thu thập bằng sự quan sát, kỹ lưỡng và khôn khéo, mọi mô tả về những chuyển động của các thiên thể, sau đó là tìm ra nguyên nhân của chúng, nghĩa là – do ta không thể nào đạt tới loại nguyên nhân thật sự – dùng trí tưởng tượng phát minh ra bất kỳ giả thuyết nào mà, một khi đã giả định chúng và tuân theo các nguyên lý hình học, những chuyển động đó có thể được tính toán chính xác, trong quá khứ cũng như trong tương lai… Và loại giả thuyết này không cần phải có thực, hoặc ngay cả tưởng như có thực; chỉ cần một điều kiện này là đủ: chúng cho phép ta làm ra các con tính phù hợp với những điều được quan sát»31. Đầu thế kỷ thứ XVII, khi Galileo Galilei lấy lại luận điểm chính của Kopernik, hồng y [Roberto] Bellarmino (1542-1621)[32]* đã gợi ý cho Galileo rằng ông nên giữ một lập trường thận trọng như vậy.

Như vậy, phương pháp giả thuyết-diễn dịch có vẻ như một trò chơi không hơn không kém, và vô dụng cho một khoa học có tham vọng dạy ta về chân lý của hiện thực. Theo [Pierre] Duhem (1861-1916)*, [André] Lalande (1867-1963)34* từng trích dẫn một nhà Kinh Viện định nghĩa nó là nghệ thuật suy cái đúng ra từ cái sai. Như vậy, điều hiện ra như một mới mẻ nghịch lý không phải là sự sử dụng suy luận giả thuyết-diễn dịch, mà là sự áp dụng nó vào vật lý học một cách có hệ thống.

b) Từ giả thuyết-định đề đến giả thuyết-ước đoán

Để hiểu rõ hơn, trước hết cần nhắc lại rằng, vào thế kỷ XVII, ta chứng kiến một sự trượt nghĩa trong cách dùng từ giả thuyết; hay, nói chính xác hơn, sự nổi lên của một nghĩa mới, trước còn sống chung với nghĩa cũ, nhưng cuối cùng đã che lấp nó hầu như hoàn toàn. Giả thuyết như ước (phỏng) đoán (hypothèse- conjecture) dần dần lấy chỗ của giả thuyết như định đề (hypothèse-postulat)[33].  Không phải là một mệnh đề đặt xuống một cách độc đoán và nằm ngoài lĩnh vực của cái đúng và cái sai nữa, mà là một mệnh đề, tuy ta chưa biết là đúng hoặc sai, nhưng nghĩ rằng kết quả thử nghiệm có thể sẽ cho phép ta quyết định. Tùy theo ta hiểu nó theo nghĩa nào, phương pháp giả thuyết-diễn dịch sẽ có tầm quan trọng rất khác. Ở Descartes, – triết gia có thể bị xem là chậm tiến, so với các nhà vật lý thực nghiệm khác, do sự gắn bó của ông với lý tưởng truyền thống về một khoa vật lý chứng minh (démonstrative) –, hai nghĩa này được đặt kề nhau tuy không trộn lẫn, và cả hai loại giả thuyết đều được đón nhận: điều này cho phép ông ta đưa ra, ngoài một biện minh thuần túy hợp lý, hai cách biện minh khác cho các nguyên lý trong khoa vật lý học của ông. Nhưng ở những nhà dựng lên phương pháp thực nghiệm, lập trường rõ ràng là đã thay đổi. Trước hết, họ tuyệt đối không muốn những giả thuyết hư cấu nữa. Họ vất bỏ quan niệm một khoa thiên văn thuần túy hình thức, để chỉ công nhận như có giá trị khoa học một thứ thiên văn cho ta những giải thích đúng thực, phù hợp với bản chất của sự vật. Dường như cả Kopernik nữa cũng không hề chấp nhận diễn giải của Osiander về lý thuyết của ông; dù sao bạn bè của Kopernik đều xem nó như một hình thức phản bội. [Petrus] Ramus (1515-1572)[34] hứa nhường ghế giáo sư tại Collège Royal[35] cho bất cứ ai có thể nghiên cứu thiên văn mà không cần giả thuyết nào. Bacon so sánh thiên văn toán học với một bộ da không có bộ lòng, nghĩa là không có những lý do vật lý (raisons physiques)[36]. Galileo không chịu đẩy sự thận trọng tới mức trình bày thuyết nhật tâm chỉ như một hư cấu toán học. Kepler đứng lên chống lại tất cả những ai dám đặt ngang hàng Klaudios Ptolemaîos với Kopernik, vì lý cớ cả hai hệ thống đều cho phép tính toán về các hiện tượng như nhau; còn về phần mình, ông chủ trương xây dựng một khoa thiên văn không phải giả thuyết hư cấu, mà dựa trên lý do vật lý (non hypothesibus ficticiis, sed physicis causis)[37]. [Blaise] Pascal* tuyên bố rằng, trong số các giả thuyết của Klaudios Ptolemaîos*, của Tycho Brahé (1546-1601)[38], của Kopernik, và những giả thuyết nào khác mà người ta có thể đưa ra, chỉ một cái là đúng thực, mặc dù bản thân ông không liều lĩnh đưa ra «một phân định lớn như vậy». Để lý giải đúng đắn cụm từ hypotheses non fingo [I feign no hypotheses = tôi không đưa ra giả thuyết nào] của Newton21, có lẽ ta phải nghĩ nhớ tới cái nghĩa tuy xa xưa nhưng vẫn còn rất dai dẳng[39] này của từ giả thuyết.

Nhưng thế thì cái phương pháp cho phép ta xây dựng nên một khoa thiên văn vật lý như vậy cũng phải có khả năng được sử dụng để xây dựng một khoa vật lý trên mô hình của thứ thiên văn này. Khoa vật lý đó phải được dựng lên từ một kiểu lật đổ phương pháp chứng minh, bằng cái phương pháp mà sau này Pascal nói rằng, qua nó, chính kinh nghiệm mới được xem là  «nguyên lý độc nhất của vật lý học»[40]. Hãy hiểu cho đúng cái nghĩa của từ nguyên lý ở Pascal, bởi nó không còn tương ứng với cái nghĩa của Descartes nữa. Ở đây, nguyên lý không còn được hiểu theo nghĩa lô-gic học, như các mệnh đề từ đấy những quy luật vật lý có thể được suy ra như hệ quả nữa, mà như các khởi điểm của việc nghiên cứu, nghĩa là nguyên lý trong nghĩa phương pháp. Từ chúng, người ta không đạt tới sự hiểu biết quy luật vật lý bằng một lập luận hình thức có tính bắt buộc về mặt lô-gic nữa, mà qua một lối tiếp cận tự do hơn song cũng đầy phiêu lưu. Những sự kiện kinh nghiệm hiện ra trước mắt ta như «những hệ quả không có tiên đề», theo kiểu Baruch Spinoza (1632-1677)* nói, để ta đi ngược lại, bằng sự phân tích, từ những hệ quả này đến các tiên đề có thể đặt ra được. Nói cách khác, là đưa ra một ước đoán ít ra có vẻ như có thể đúng thực; rồi sau đó, đảo ngược cách vận hành, lần này bằng sự diễn dịch chặt chẽ, đi từ ước đoán xuống những hệ quả, sao cho các hệ quả này cho phép ta xác định giá trị của ước đoán, qua sự đối chiếu với những sự kiện kinh nghiệm. Một ý tưởng giữa hai sự kiện: từ quan sát đưa ra một giả thuyết, rồi từ giả thuyết, thông qua một diễn dịch, trở lại với kinh nghiệm để kiểm soát giả thuyết đấy là nội dung của phương pháp giả thuyết-diễn dịch, và nó sẽ là phương pháp của khoa học vật lý mới.

Như vậy, trong khi các nhà vật lý mới bác bỏ giả thuyết như hư cấu hoàn toàn, để đền bù – do sự chống đối cả một thứ vật lý đơn thuần là chứng minh kiểu hình học (more geometrico) nữa – họ cũng sử dụng một cách có hệ thống giả thuyết như ước đoán, và qua đó, mang tới cho lối lập luận giả thuyết-diễn dịch một nghĩa mới và một tầm quan trọng mới. Đúng là nói một cách tổng quát, họ tránh nhấn mạnh trên lối tiến hành cốt yếu này của phương pháp, và thích thú đề cao sự chặt chẽ của lập luận, và sự quy chiếu về sự kiện hơn. Nhưng ai cũng nhìn thấy, nếu không phải thường xuyên qua lời nói, thì ít ra cũng luôn luôn trong hành động, rằng giả thuyết là cái phần không thể thiếu trong phương pháp của họ. Chỉ cần dẫn chứng hai thí dụ nổi tiếng: ta đều nhớ Kepler đã liên tục làm không biết bao nhiêu thử nghiệm trước khi rơi vào ý tưởng một quỹ đạo dạng ê-lip, và ta đều nhớ rằng học thuyết về lực hấp dẫn đã nằm không biết bao nhiêu năm tháng trong đầu Newton như một giả thuyết sai lầm, cho đến khi một đo đạc trắc địa mới cho thấy là nó tương ứng chính xác với những sự kiện.

Tuy nhiên, dù hiểu giả thuyết khởi đầu theo nghĩa nào, làm sao ta có thể né tránh được điểm khiếm khuyết vẫn được nhìn nhận của cái phương pháp này, nhất là khi bây giờ nó còn được sử dụng như phương tiện để đánh giá tính chân thực của các nguyên lý, căn cứ trên hệ quả của chúng? Liệu nó sẽ khiến cho sự chắc chắn của toàn bộ khoa vật lý bị nghi ngờ, và ngăn cản bộ môn này đạt tới cương vị khoa học chăng?      

c) Từ probabilis Kinh Viện đến phép tính xác suất

Các nhà vật lý hiện đại không tranh cãi gì chung quanh điểm khiếm khuyết về lô-gic trên; họ chỉ nghĩ rằng, trong một số điều kiện, phương pháp này có thể cho ta một bảo đảm, trên thực tế, tương đương với sự chắc chắn. Ở đây nữa, phải tránh kỹ mọi lẫn lộn. Giống như ý niệm giả thuyết, và trong tương quan với nó, lúc ấy ý niệm xác suất cũng đang chao đảo. Ý tưởng có một thứ vật lý học chỉ có xác suất như thế, và do đó, đối lập với cái chắc chắn như thế của toán học, còn rất xa với cái gọi là mới, mà ngược lại, là một trong những giáo điều của triết thuyết Kinh Viện*. Bởi vì vật lý học được giảng dạy đương thời như một ngành của triết học, chứ không đứng chung với các khoa học chính xác. Có điều cái có xác suất như thế, theo nghĩa riêng của từ probabilis đối với các nhà Kinh Viện, là cái có thể chứng minh được: nó là điểm kết của một lập luận biện chứng. Trong điều kiện này, chẳng có mệnh đề nào là không «có xác xuất như thế», tất cả tùy thuộc ở sự khôn khéo của kẻ tranh biện. Một quan điểm về cái «có xác xuất như thế» hiển nhiên chỉ có những quan hệ xa xôi với sự chắc chắn và chân lý. Chúng ta đều biết vị trí mà loại «disputationes pro et contra»[41] chiếm giữ trong Nhà trường Kinh Viện. Và chúng ta đều hiểu sự căm ghét thứ khoa học mà «lý tính chỉ là cái có xác xuất như thế»[42] của Descartes, một sự căm ghét hoàn toàn được các tác giả quảng bá phương pháp thực nghiệm chia sẻ. Nhưng bản thân các vị này cũng đã bắt đầu hiểu từ probabilis theo một nghĩa khác, cái nghĩa đã trở thành của ta ngày nay. Thực vậy, trong ngôn ngữ thường ngày của chúng ta, cái «có xác suất như thế» chính là cái đã tiến đến gần tuy chưa đạt tới cái chắc chắn, và trong nghĩa rộng hơn của ngôn ngữ khoa học, là tất cả cái vùng nằm giữa cái nhất thiết đúng và cái nhất thiết sai, cả hai còn được nó bao gồm như hai trường hợp giới hạn. Trong thời kỳ chuyển tiếp là thế kỷ XVIII này, có lẽ không có gì cho ta thấy sự cộng sinh và đồng thời là sự đối lập giữa hai nghĩa trên rõ ràng hơn là sự kiện chính Pascal, kẻ từng đả phá quyết liệt cái học thuyết về những ý kiến có xác xuất như thế trong quyển Các Trưởng Giáo Khu (Les Provinciales)[43], lại cũng là người khởi xướng hiện đại của phép tính xác suất. Trong phép tính này, bản thân tính xác xuất đã trở thành đối tượng khoa học, nghĩa là nó phải tuân theo sự đo lường và xử lý toán học: xác xuất chính là cái có thể được định lượng bằng con số.

Đúng là vào thế kỷ XVII, chưa có vấn đề áp dụng biện pháp [định lượng] này để tính xác suất của các giả thuyết khoa học. Nhưng ít ra, dù chưa đẩy xa tới mức chính xác bằng con số, người ta cũng đã cố gắng định ra nhiều mức độ xác suất khác nhau của một giả thuyết, dựa trên sự đúng thực của những kết quả trong các cuộc thí nghiệm; và người ta chỉ ra rằng mức xác suất đó có thể lên cao tới cấp bực cầm bằng như chắc chắc, tới cái mức mà đương thời người ta gọi là sự «chắc chắn tinh thần» (Descartes) hay sự «chắc chắn vật lý» (Leibniz) để đối lập nó với sự chắc chắn lô-gic hay toán học. Rồi Thomas Hobbes (1588-1679)*, Robert Hooke (1635-1703)[44], Robert Boyle (1627-1691)[45] bắt đầu làm rõ những điều kiện của nó. Đến cuối thế kỷ, vấn đề hết còn là đối tượng tranh cãi. Gottfried Leibniz (1646-1716)*, kẻ từng mong muốn là người ta sẽ tạo ra, bên cạnh môn lô-gic học chứng minh (démostrative), «một thứ lô-gic học mới nhằm xử lý các mức độ xác suất, đồng thời cho chúng ta một bàn cân cần thiết để cân nhắc những ngoại hiện (apparences), và đưa ra một phán đoán vững chắc về chúng»[46], còn nói rõ thêm các chi tiết sau: «[Có] nhiều người khởi đi từ một giả thuyết nào đấy để suy ra những hiện tượng đã biết, nhưng sau khi chấp nhận đề xuất một thứ vật lý học không chứng minh (non démonstrative), họ không thể nào chứng minh qua đó rằng giả thuyết của họ là đúng, trừ phi tuân theo điều kiện mà tôi vừa mới nêu ra [điều kiện về tính hỗ tương của các mệnh đề], điều mà trên thực tế họ đã không làm, và có lẽ là không muốn hay không thể làm. Chỉ cần phải công nhận rằng một giả thuyết càng giản dị dễ hiểu, và càng có quyền năng rộng   nghĩa là cho phép giải thích một số lượng hiện tượng lớn nhất với ít giả định nhất thì càng có xác suất cao hơn. Và có thể có trường hợp một giả thuyết nào đó được xem như chắc chắn về mặt vật lý, một khi nó đã thỏa mãn hoàn toàn mọi hiện tượng xảy ra, kiểu như một chiếc chìa khóa để giải mã những bản mật ước. Nhưng ngoài tính chân lý của nó, giá trị lớn nhất của một giả thuyết là khi nó cho phép ta đưa ra cả các tiên đoán về những hiện tượng hay kinh nghiệm chưa bao giờ được thử thách, bởi vì trong trường hợp này, một giả thuyết như thế có thể được xem luôn như chân lý trong thực tế»[47]. Điều này cho phép ông viết ở nơi khác: «Có vẻ như là sự chắc chắn (hiểu theo nghĩa tinh thần hay vật lý) chứ không phải là sự tất yếu (hay chắc chắn siêu hình) của loại mệnh đề này – mà ta chỉ học được do kinh nghiệm thôi, chứ không phải từ sự phân tích và tương quan ý tưởng – đã được thiết lập giữa chúng ta rồi, và một cách hoàn toàn hợp lý»[48].

2 – SỰ XỬ LÝ KINH NGHIỆM BẰNG TOÁN HỌC

a) Sự quy giản thế giới kinh nghiệm vào cấu trúc toán học

Nét thứ hai phân biệt nền vật lý học hiện đại với vật lý học trước kia là sự quy giản một cách có hệ thống thế giới kinh nghiệm vào cấu trúc toán học của nó. Ở đây cũng vậy, cần phải thấy rõ sự mới mẻ của lối nhận thức hiện tượng này nằm ở đâu. Chỉ áp dụng toán học vào việc diễn giải kinh nghiệm thôi, thì chưa đủ để làm nhà khoa học hiện đại. Ông thầy pháp của truyền thống giả kim không hề bỏ quên toán. Ngay chính Kepler cũng chưa bao giờ vượt thoát hoàn toàn thứ não trạng thần bí toán học.  Trong tác phẩm đầu tay, Những Bí Ẩn Của Vũ Trụ (Mysterium cosmographicum), ông giải thích số lượng và khoảng cách giữa các hành tinh được biết tới lúc đó, bằng quy chiếu về lý thuyết hình đa diện đều mà số lượng chính xác là năm – chúng ta đều biết điều này từ thời Platôn, khi triết gia trên đã thực tế sử dụng nó trong Timaeus. Kepler viết: «[Quỹ đạo của Trái Đất là đơn vị đo lường mọi quỹ đạo khác]. Khoanh quỹ đạo của Trái Đất bằng một hình 12 mặt đều: cái đường cầu bao quanh nó là của Sao Hỏa. Khoanh quỹ đạo của Sao Hỏa bằng một hình 4 mặt đều: cái đường cầu bao quanh nó là của Sao Mộc. Khoanh quỹ đạo của Sao Mộc bằng một hình lập phương: cái đường cầu bao quanh nó là của Sao Thổ. Bây giờ đặt trong quỹ đạo của Trái Đất một hình 20 mặt đều: đường tròn nội tiếp với nó là Sao Kim. Đặt trong quỹ đạo của Sao Kim một hình 8 mặt đều: đường tròn nội tiếp với nó là Sao Thủy. Đấy là lý do giải thích số lượng hành tinh»[49], và quy mô các quỹ đạo của chúng. Dưới một hình thức thanh lọc hơn, loại tư biện này vẫn còn tồn đọng cho đến cuối sự nghiệp của Kepler, khi mà để mô tả Sự Hài Hòa Của Thế Giới (Harmonie du Monde), ông lấy lại các luận điểm chính trong Những Bí Ẩn Của Vũ Trụ, tuy có điều chỉnh và bổ sung; và chúng đã xen lẫn một cách kỳ lạ trong đầu ông với các luận điểm đã đưa ông tới những khám phá vĩ đại.

b) Thao tác đo đạc và sự định lượng chính xác

Toán học đã bước vào vật lý bằng cách khác, và nó đạp đổ cái hàng rào do Nhà Trường dựng lên để phân cách triệt để – như cái tưởng tượng với cái hiện thực – một khoa học trừu tượng và thuần túy ý tưởng, với một khoa học nhằm mang lại cho ta hiểu biết về cái cụ thể như nó hiện ra trong kinh nghiệm giác quan. Từ nay, sự kêu gọi thí nghiệm đi đôi, một cách nghịch lý, với sự xuống giá của cái cảm quan (sensible). Tất cả sự phong phú cụ thể mà cuộc đời cống hiến cho nhận thức ta, và từng làm cho bao tâm hồn nghệ sĩ ngây ngất, sẽ dần dần bị quy giản thành ký hiệu đại số. Các phẩm chất chỉ khiến nhà vật lý quan tâm như những kích thích cần đo đạc, và chúng chỉ đặt chân vào khoa học trong danh nghĩa là cái được định lượng. Trong thứ khoa học này, những phát biểu căn bản được đặt ở một cấp bậc khác với loại phát biểu cảm quan. Đấy là các bảng số, biểu trưng giá trị của những đại lượng nào đó. Để tiến vào khoa học, bước quyết định phải đạt được là chuyển mọi hiện tượng thành loại đại lượng trừu tượng như thế. Những phát biểu đo lường «là chất liệu cơ bản nhà vật lý học dùng để xây dựng thế giới của ông ta, chúng là những yếu tố đơn giản của ‘hiện thực’ mà ông tìm cách xác định trong mọi phán đoán của ông ta»[50]. Như thế, không còn là tìm kiếm những tương quan nối tiếp nhau hay cùng tồn tại, giữa hai hay nhiều hiện tượng vẫn bị giữ trong sự không đồng nhất nữa – như ở những khoa học chưa trưởng thành mà các phân tích của trường phái kinh nghiệm Anh, từ Bacon tới Mill, còn vương vấn –, mà là phân tích chỉ một hiện tượng thành các kích thước[51] đặc trưng của nó, để xác định tương quan toán học theo đó kích thước này biến thiên theo kích thước kia (được lấy làm biến số độc lập) như thế nào. Phát hiện ra các «kích thước» này, nghĩa là những ý niệm trừu tượng mà độ lớn có thể được xác định bằng thực nghiệm, đấy chính là công đoạn đầu tiên của nhà bác học. Khoa học cổ đại chỉ biết một số ít đại lượng, và những cái tầm thường nhất – chiều dài, thời lượng, tốc độ, sức nặng – do cảm giác gợi ý trực tiếp. Nhưng những đại lượng cơ bản của khoa học, trước hết và nói chính xác là của cơ học – lực, khối, gia tốc – thì không hiện ra một cách tự nhiên cho sự quan sát, và chính chúng sẽ là những khám phá căn bản của khoa vật lý học mới[52] trong thế kỷ XVII. Đúng là những ý tưởng cơ bản đó không còn là cụ thể nữa. Phải nói chúng là trừu tượng chăng? [Cũng được thôi.] Nhưng không phải trừu tượng theo nghĩa ở các khái niệm của Aristotelês – nghĩa là khi mức độ trừu tượng và tổng quát của chúng càng cao, thì chúng càng mất đi tính xác định, và do đó, không cho phép tạo lại cái cụ thể từ đấy chúng được rút ra nữa. Chúng chỉ trừu tượng theo nghĩa là thuộc về trí tuệ, không dễ tiếp cận tức thì bằng cảm quan, và chỉ có ý nghĩa vật lý khi đi kèm với sự chỉ định một thao tác cho phép đạt được một con số đo chính xác tương ứng trong cụ thể. Người ta còn đi tới chỗ khẳng định rằng ý nghĩa của chúng nằm, hoàn toàn và duy nhất, trong toàn bộ những thao tác dùng để đo đạc chúng[53]; hoặc là, và điều này cũng có nghĩa như thế mà thôi, «phương pháp khoa học đo đạc trước khi biết nó đo đạc cái gì»[54]. Và thực thể mới chỉ có nghĩa nhờ cái thao tác đo đạc đã xác định nó, cho dù nó còn mượn tên của một ý niệm quen thuộc hơn đi nữa. Chính là giữa những đại lượng trừu tượng này – trong cái nghĩa mới của hình dung từ «trừu tượng» – chứ không phải giữa những hiện tượng cụ thể, mà khoa vật lý học sẽ dệt lên mạng lưới các định luật của nó.

Đối với loại triết gia mà đầu óc truyền thống còn gắn chặt vào một thứ vật lý định tính, cùng với thói quen nhìn toán học như một khoa học thứ yếu, thì hoàn toàn có thể hiểu được là cách bước vào nghiên cứu tự nhiên như trên có vẻ là quái gở cỡ nào. Điều người đương thời chê trách Galileo là ông đã suy luận như nhà toán học; trong khi ngược lại, Galileo đòi hỏi rằng, bên cạnh danh hiệu chính thức của ông là nhà toán học, người ta còn phải ghi thêm danh hiệu triết gia – nghĩa là nhà vật lý học[55] –, bởi vì ông viết: «tôi tuyên bố đã cống hiến nhiều năm cho việc nghiên cứu triết học hơn là nhiều tháng để nghiên cứu toán học thuần túy»[56]. Và sự thật là «sách triết lý là quyển sách luôn luôn rộng mở trước mắt chúng ta; nhưng vì nó được viết bằng thứ chữ khác với những chữ trong bảng chữ cái của ta, nên không phải tất cả mọi người đều đọc được; những chữ của quyển sách đó chúng không là gì khác hơn là các tam giác, hình vuông, hình tròn, hình cầu, hình nón, và những hình thể khác của toán học hoàn toàn thích hợp với kiểu đọc này»[57].

Chúng tôi đã loan báo rằng những nét chúng tôi dùng để đặc trưng hóa phương pháp khoa học mới là liên đới rồi. Hãy ghi nhận thêm ở đây là sự đo lường chính xác và sự chặt chẽ của lý luận toán học đã đóng góp đến mức nào vào việc nâng cao uy tín cho việc sử dụng phương pháp giả thuyết-diễn dịch để tìm hiểu hiện thực. Thực vậy, sự chắc chắn tinh thần (niềm tin tinh thần) rằng tính chân lý của hệ quả bảo đảm cho tính chân lý của giả thuyết càng tăng thêm, nếu các kết quả này chẳng những đã nhiều hơn, mà còn được thiết lập với độ chính xác cao hơn. Nếu khi còn ẩn trong sự mơ hồ, cái xác suất người ta có thể suy ra cùng một tập hợp sự kiện từ nhiều hệ thống giả thuyết khác nhau là điều hầu như cầm chắc – và do đó, nó không cho phép ta kết luận giả thuyết nào là đúng –, thì tình hình khác hẳn khi những sự kiện ấy đã được tiên đoán một cách chính xác đến tận chi tiết. Để chứng minh giả thuyết nguyên tử, Titus Lucretius Carus* (Lucrèce, khg 99-55 tCn) đã dẫn chứng, chẳng hạn, rằng chiếc nhẫn đeo trên ngón tay sẽ bị mòn dần do sự cọ xát, rằng những tấm vải phơi gần bờ sông sẽ thấm ẩm nhưng khi phơi ra nắng thì ráo khô, v. v… Những chứng cớ ấy có vẻ như đúng thật, song không hề loại bỏ khả năng có những giải thích khác. Thế nhưng, khi để thử thách các lý thuyết nguyên tử hiện đại, Jean Perrin (1870-1942)[58]* tính giá trị của con số Avogadro[59] bằng cả chục cách tính độc lập với nhau mà mọi kết quả đều cho ra cùng một con số, thì không còn chỗ cho một nghi ngờ hợp lý nào nữa.

c) Một sự «cải đạo» trong thói quen nhìn tự nhiên

Dù sự đưa một cách có hệ thống thao tác đo lường vào việc nghiên cứu hiện tượng tự nhiên là quan trọng tới mức nào, nó cũng chỉ biểu thị một khía cạnh của sự toán học hóa thiên nhiên, và một khía cạnh phụ thuộc mà thôi. Nói cho cùng, cả Bacon nữa cũng đòi hỏi ta phải đếm, phải cân, phải đo. Thế nhưng, thứ đo lường ấy thuộc vào loại mà bất cứ ai cũng có thể làm một cách trực tiếp trên trên những dữ kiện của kinh nghiệm cụ thể. Chúng có thể mang tới một sự chính xác lớn hơn cho cho nền khoa học cũ, nhưng không gây ra một sự đảo lộn nào cả: cách ta nhìn tự nhiên vẫn như cũ, chỉ có sự sắp xếp sao cho thích hợp trở thành tốt hơn mà thôi. Bước chuyển sang khoa học hiện đại giả định một cuộc cách mạng tinh thần thật sự, gắn liền với một sự biến đổi triệt để về cách nhìn vạn vật. Đấy là thói quen nhìn tự nhiên với con mắt của nhà hình học, thực hiện «sự thay thế không gian cụ thể của nền vật lý học trước Galileo bằng không gian trừu tượng của hình học Eukleidês»[60], nghĩa là đặt những hiện tượng vào trong một không gian thuần nhất, đẳng hướng và vô hạn – nói cách khác, là quan niệm một thế giới không còn là thứ vũ trụ đã hoàn thành nữa mà mất hút trong cõi vô tận, một thế giới không có trung tâm, và tổng quát hơn, không có những nơi chốn cũng như định hướng ưu đãi như trên dưới… Và trong thứ không gian là hư vô vật lý, là trống rỗng tuyệt đối như vậy, quy mọi chuyển động thành những sự đổi chỗ đơn giản của các điểm hình học; và thậm chí còn đi xa hơn nữa, lấy lại những phỏng đoán táo bạo của các nhà nguyên tử luận xưa nhờ một dụng cụ toán học mà họ không có, lần này quy tất cả mọi thay đổi trong hiện tượng thành những chuyển động đơn giản, theo nghĩa hiện đại của chuyển động cục bộ. Như vậy là ném ra ngoài hiện thực vật lý học mọi phẩm chất cảm tính vốn là xương thịt của hiện thực đối với các nhà vật lý Kinh Viện* kiểu Aristotelês cũng như của thông kiến, để chỉ xem chúng đơn giản như loại tác động của ngoại giới lên chủ thể. Galileo từng tuyên bố trong Người Thí Nghiệm (Saggiatore, 1623), rằng đen và trắng, ngọt và đắng… chỉ là những cái tên mà ta áp đặt cho các sự vật đã gây ra trong ta một số cảm giác, trong khi chỉ có hình thể và đại lượng, sự chuyển độngsự đứng yên, là những phẩm chất sơ đẳng và hiện thực (primi e reali accidenti)[61]. Descartes quy vật chất thành quảng tính hình học, và tuyên bố rằng trong thiên nhiên tất cả đều chỉ do hình thể và chuyển động tạo nên. Gassendi thích nghi cơ học nguyên tử của Dêmokritos vào các đòi hỏi mới của khoa học. Huygens tuyên bố rằng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu gì về vật lý học cả, nếu không quan niệm nguyên nhân của mọi hiệu ứng tự nhiên bằng lý do cơ học. Và Newton giao cho vật lý học nhiệm vụ xác định mọi hiện tượng thông qua hiện tượng chuyển động.

d) Cái cụ thể như mặt đối lập của cái khách quan

Như vậy là hai thành phần xưa vẫn được hợp nhất trong định nghĩa hiện thực nay đã bị đã tách rời ra. Một mặt, hiện thực là cái tự phơi bày trong kinh nghiệm trực tiếp, cái tự áp đặt cho nhận thức bất chấp mọi sở thích của tôi, tóm lại là cái cụ thể. Mặt khác, nó cũng là cái tồn tại độc lập với mọi hiểu biết mà anh hay tôi có thể sở hữu về nó, cái mà mọi tri thức đều phải dựa vào để tự điều chỉnh hầu có một giá trị khách quan. Giờ đây, hai tính chất này không còn phối hợp hài hòa với nhau nữa, mà có khuynh hướng trở thành đối kháng; và khoảng cách chỉ ngày càng sâu đậm hơn với những triển khai sau này của khoa vật lý. Ngày càng rõ ràng là ta chỉ đạt tới tính khách quan của tri thức vật lý học bằng sự tước bỏ khỏi vật thể cái vỏ ngoài cảm quan của nó. Từ «hiện thực» bây giờ phải được hiểu theo hai nghĩa, không những chẳng còn lân cận, mà ngược lại, được đặt ở hai cực của quá trình hiểu biết, một như cái thưở ban đầu (terminus a quo), một như cái ngày kết thúc (terminus ad quem) của nó: một bên là dữ kiện trực tiếp, điểm bắt đầu tất yếu của mọi hiểu biết về tự nhiên, bên kia là thế giới khách quan mà tri thức khoa học nhắm tới như lý tưởng. Giữa cái cụ thểcái khách quan, ngày nay ta buộc phải chọn lựa. Cái hiện thực của nhà vật lý học không còn có thể là cùng một thứ với cái hiện thực của thông kiến, như đã từng cho tới nay. Từ cái này sang cái kia, cuộc chia tay và sự đoạn tuyệt là chuyện đã rồi.

3 – SỰ CẦU VIỆN TỚI THÍ NGHIỆM

a) Từ quan sát tầm thường sang quan sát thông thái

Cuối cùng, nét đối lập cơ bản với nền vật lý cũ trong phương pháp vật lý học hiện đại hiện ra bên ngoài và dễ nhận thấy hơn: đó là sự tinh vi trong quan sát, bước chuyển từ sự quan sát tầm thường mà người ta vẫn luôn luôn thực hiện cho đến lúc đó sang sự quan sát thông thái, nhờ cầu viện tới một thiết bị được quan niệm cho chính mỗi mục đích này (ad hoc). Một biến đổi sẽ đẩy nhà vật lý xa dần các triết gia và nhà văn, để từ từ đến gần giới thợ thủ công và kỹ sư hơn, đồng thời đưa ông ta ra khỏi thư viện để vào phòng thí nghiệm. Đầu thế kỷ XVII, người ta thấy các nhà bác học cộng tác, tuy thường là không mấy suôn sẻ[62], với những người thợ được tuyển lựa nhờ tài khéo léo, nhằm chế tạo ra loại công cụ cần dùng cho việc nghiên cứu. Rồi những công cụ này được nhân lên, trở thành phức tạp hơn, và đòi hỏi những chi phí vượt xa khả năng tài chính của một cá nhân, nên những phòng thí nghiệm cộng đồng bắt đầu xuất hiện, lúc đầu do các hội nghiên cứu (sociétés savantes) được tổ chức một cách chính thức[63] trang trải, sau đó bởi các Đại học. Đồng thời, một thứ kỹ nghệ và thương mại hoàn toàn mới của giới chế tác và thương gia chuyên biệt về thiết bị vật lý học cũng xuất hiện và không ngừng phát triển[64].

Những thiết bị này thuộc nhiều loại, và đáp ứng nhiều nhiệm vụ khác nhau, ngoài một số có thể thích nghi với nhiều chức năng. Đầu tiên là loại công cụ quan sát, nhằm gia tăng tầm sức các giác quan của chúng ta. Cái kính thiên văn (perspicillum)[65] của Galileo có thể được xem là dụng cụ khoa học đầu tiên như Koyré* từng khẳng định; nó cho phép ta vượt lên trên cái giới hạn mà thiên nhiên áp đặt cho khả năng cảm nhận và hiểu biết của con người; với nó, bắt đầu một thời kỳ mới trong sự phát triển khoa học mà ta có thể gọi là thời đại công cụ[66]. Sau này, nhiều công cụ mới còn cho phép ta, chẳng những nới rộng tầm hoạt động của một trong các giác quan, mà còn chuyển được thành biểu hiện cảm giác những hiện tượng mà không một giác quan nào của ta có thể thích ứng. Tiếp theo là loại công cụ đo lường. Một nền vật lý dựa trên sự hiểu biết những «kích thước» tất nhiên đòi hỏi phải có loại dụng cụ tương tự. Mỗi cặp phẩm chất trái ngược trên đó khoa vật lý học của Aristotelês được xây dựng, như nóng với lạnh, khô với ướt, nay được thay thế bằng một ý niệm trừu tượng duy nhất, như ý niệm nhiệt độ hay mức độ ẩm, song lại được phân chia trên một bậc thang có những nấc giá trị khác nhau, dựa trên đó ta có thể quy định, bằng công cụ thích hợp, một đại lượng vừa chính xác vừa khách quan cho mỗi thí nghiệm: đây chính là hai đặc tính không thể thiếu để đưa các hiện tượng lên tầm mức khoa học, nhưng lại là những thứ mà các giác quan của ta không thể cung cấp. Cuối cùng, những cỗ máy ít nhiều phức tạp, với các bộ phận cho phép ta tự tạo ra hiện tượng phải nghiên cứu trong những điều kiện quan sát thuận lợi hơn. Tấm ván nghiêng của Galileo với những hòn bi, thước đứng (toise) và đồng hồ nước, đã là một cỗ máy như vậy, nhưng dưới một hình thức thô sơ. Khi Bacon đòi hỏi ta tra tấn thiên nhiên để buộc nó phải khai ra những bí mật của mình, và khi Descartes nói về «những thí nghiệm hiếm hoi và được chuẩn bị» mà người ta có thể nghĩ ra sau loại «thí nghiệm tự nhiên hiện ra trước các giác quan» vào lúc đã có nhiều hiểu biết hơn,… cả hai ông đều nghĩ tới cách cật vấn tự nhiên triệt để này.

Nhưng ngay cả ở đây nữa, cũng không nên hiểu sai tầm quan trọng chính xác của những thủ tục (procedures) nhân tạo này. Một mặt, sự động viên thí nghiệm tự nó không đủ để mang lại cho việc nghiên cứu giá trị thực nghiệm; mặt khác, nếu nó được kết hợp một cách tự nhiên với phương pháp thực nghiệm, thì dù sao cũng không phải bằng kiểu gắn bó tuyệt đối không thể tách rời. Thực ra, sự phát triển của ngành vật lý phòng thí nghiệm cho thấy một sự chậm trễ nào đó so với sự phát sinh của tinh thần thực nghiệm trong khoa vật lý học. Maurice Daumas (1910-1984)66 từng nhận xét rằng, để giúp cho các môi trường liên quan quen thuộc với dụng cụ khoa học, phải mất cả thế kỷ XVII chứ không ít hơn. Suốt trong một thời gian dài, bị xem như thứ dụng cụ được chế tạo riêng, với phí tổn cực lớn, cho các nhà bác học hạng nhất, dụng cụ chỉ trở thành thông dụng trong nửa đầu thế kỷ  XVIII[67]. Và cũng chỉ vào thời kỳ đó mà những cuộc thí nghiệm bắt đầu được thực hiện trong việc giảng dạy khoa vật lý học. Được đặt ra vào năm 1659, những «ngày thứ tư» nổi tiếng của Rohault[68], nơi nhiều cuộc thí nghiệm khoa học từng được thực hiện, bình luận và tranh cãi, là một hiện tượng bên lề nền giáo dục chính thức. Người ta chỉ noi gương ông khoảng năm 1700, nhưng một cách vẫn còn lẻ tẻ, tại Oxford (Anh) và Leyde (Hà Lan). Ở Pháp, chỉ từ năm 1753 một ghế giáo sư vật lý học thực nghiệm mới được tổ chức tại Collège de Navarre[69], và giao cho tu viện trưởng [Jean-Antoine] Nollet (1700-1770)[70] đảm trách. Vài năm trước đó, một trong số các giáo sư vật lý thực nghiệm đầu tiên là Desaguliers[71] còn ước lượng rằng số đồng nghiệp của ông không vượt quá mươi mười hai người, trên khắp Âu châu.

Nhưng nhất là, trong chiều hướng ngược lại, việc tra vấn tự nhiên là vô bổ, nếu nó không được thực thi với một tinh thần thực sự khoa học. Khoan nói tới sự thay thế tự nhiên bằng dụng cụ nhân tạo mà kỹ thuật mang lại: từ thế kỷ XIII, kỹ xảo của con người đã có một bước tiến mới, nhưng nền khoa học chính thức vẫn giữ thái độ bề trên, khinh khỉnh nhìn xuống những công trình của giới tiểu công nghệ và ngay cả của các kỹ sư. Hãy nghĩ tới bao kẻ vẫn sống khép kín trong các phòng thí nghiệm, giữa nào bình, chén, nồi, lò… suốt từ thời Trung Cổ sang đến thời Phục Hưng. Họ chỉ hoài công tra tấn tự nhiên, với đủ trò nấu, chưng, cất, trộn,… thiên nhiên vẫn không hề trả lời, ngay cả cho những người đã xua khỏi đầu óc mình mọi tàn dư của ma thuật hay thần bí, bởi vì họ không biết đặt ra những câu hỏi thích hợp. Thật đáng lưu ý là khoa hóa học, bộ môn đã đi trước khoa vật lý rất nhiều trong việc thực hành cái ta buộc phải gọi là «làm thí nghiệm» mà thôi, lại chỉ trở thành một khoa học với gần hai thế kỷ chậm hơn môn vật lý, chính xác là từ khi nó thu nhận cách đặt vấn đề của nhà vật lý, và cụ thể là từ khi nó bắt đầu sử dụng một cách có hệ thống thứ cân chính xác (balance de précision). Ngay cả trong vật lý học, việc thí nghiệm chưa thực sự là mới ở thế kỷ XVII. Về điểm này, Roger Bacon (1214-1294)[72] thường   được viện dẫn như người báo trước. Thế nhưng Pierre Brunet (1893-1950) ghi chú rằng: ở ông, «cũng như ở hầu hết các tác giả của thế kỷ XIII, từ experimenta mang ý nghĩa ít nhiều bí hiểm, ám chỉ các phương pháp giả kim, và đến một mức độ nào đó, có lẽ cả ma thuật nữa, nhưng dù sao cũng chẳng có tí gì là thực nghiệm theo nghĩa hiện đại» [73].

b) Hai chức năng của thí nghiệm: gợi mở và kiểm tra giả thuyết

Thực ra, khác biệt căn bản không nằm giữa quan sát đơn giản, hiểu như sự ghi nhận hiện tượng đúng như chính tự nhiên đã phơi bày chúng, và thí nghiệm, hiểu như sự sản xuất ra hiện tượng mà con người phải nghiên cứu. Khác biệt đó liên quan đến loại thao tác dùng tay, trong khi khác biệt chính nằm trong thái độ tinh thần. Từ quan điểm sau, đúng như Claude Bernard* đã giải thích sau này, khác biệt chính yếu là giữa, làm một quan sátcầu đến thí nghiệm. Nó đáp ứng hai chức năng khác nhau. Làm một quan sát, đấy chính là điểm bắt đầu của phương pháp: sự ghi nhận sự kiện do ý tưởng đề xuất. Nếu sự ghi nhận đó thông thường là về những hiện tượng tự chúng mở ra trước mắt ta, không có gì cấm cản nó là một cơ hội xảy ra trong lúc làm thí nghiệm, thậm chí xuất phát từ một cuộc thí nghiệm được chủ ý dựng lên nhằm làm cho việc quan sát được chính xác hơn. Trong cả hai trường hợp, chức năng là một: đặt vấn đề. Nhưng sau khi một giải pháp đã được tưởng tượng ra như giả thuyết ít nhiều có thể đúng thực, thì phải kiểm tra nó, phải thử thách nó, và để làm điều này, phải cầu đến thí nghiệm để xem nó có phù hợp hay không với những hệ quả của giả thuyết. Nhân tạo dựng lên một cuộc thí nghiệm như vậy, dưới hình thức chính xác nó phải có, để sự kiểm soát mang tính quyết định, chắc chắn sẽ là thủ tục tốt nhất khi việc đó là khả thi, nhưng nếu có lúc thiên nhiên cho ta sẵn cơ hội để thực hiện nó một cách bộc phát, thì cũng chẳng có gì thay đổi cả, nhìn dưới khía cạnh phương pháp: ta luôn luôn ở vào giai đoạn cuối tức là giai đoạn quyết định giải pháp cho vấn đề. Chính sự phân biệt giữa hai chức năng của thí nghiệm này – gợi lên giả thuyết hay kiểm tra giả thuyếtmới là nét đặc trưng của phương pháp thực nghiệm. Và nếu sự phân biệt đó thường trùng hợp một cách khá tự nhiên, ít ra vào buổi đầu của khoa học, với sự phân biệt giữa lối quan sát thô và quan sát trong phòng thí nghiệm, thì cũng không phải vì thế mà có thể quy sự phân biệt trước vào sự phân biệt sau. 

Đấy là lý do khiến cho việc thực hành sự quan sát nhân tạo, dù rất đều đặn, tự nó cũng không đủ để được xem là đặc trưng của phương pháp mới trong vật lý học. Nó chỉ cho kết quả tốt khi được gắn chặt với hai nét đã dùng để định nghĩa phương pháp thực nghiệm: sự sử dụng triệt để lý luận giả thuyết-diễn dịch, và sự diễn đạt các vấn đề vật lý bằng ngôn ngữ kích thước. Để kiểm soát những hệ quả của nó – được diễn tả qua một số đại lượng chính xác –, phương pháp giả thuyết phải động viên một thủ tục có khả năng, trong điều kiện lý tưởng, làm hiện ra các đại lượng mà vấn đề đặt ra quan tâm tới nơi hiện tượng nghiên cứu, bằng cách kéo chúng ra khỏi những nhiễu loạn thường ảnh hưởng tới chúng trong tự nhiên, do được kết hợp với các đại lượng khác – nghĩa là cô lập chúng hầu có thể theo dõi các biến thiên của chúng[74], «giả định rằng mọi yếu tố khác của tình huống đều không thay đổi»[75], v. v… Ngay cả sự chính xác của các biện pháp đo lường cũng đòi hỏi vô số thận trọng, và chúng áp đặt một thiết bị phức tạp. Hơn nữa, khi chính những kết quả lý thuyết đạt được từ đợt quan sát đầu tiên được thí nghiệm xác nhận, thì đến phiên chúng cũng trở thành các loại sự kiện trên đó bây giờ người ta có thể leo lên một nấc để xây dựng, rồi cứ như thế mà sự việc tiếp diễn. Whewell* đã nhấn mạnh trên sự biến đổi ý tưởng thành sự kiện này một cách đúng đắn. Áp suất của khí quyển trên mặt nước hay trên chậu thủy ngân, đấy là sự kiện chăng, hay là lý thuyết? Trả lời: đây là một lý thuyết đã trở thành sự kiện. Trong những điều kiện như trên, các sự kiện căn bản di chuyển dần về phía vấn đề mà nhà vật lý đặt ra, và ngày càng xa những sự kiện mà tự nhiên cung cấp. Theo chiều hướng này, Edouard Le Roy[76] sẽ nói rằng sự kiện khoa học là do các nhà bác học làm ra. Có thể nói rằng nhà bác học dựng lên một tự nhiên nhân tạo; và vật lý học, vốn là một khoa học của tự nhiên như tên nó luôn luôn nhắc nhở, rốt cuộc đã trở thành, trọn vẹn, một khoa học của phòng thí nghiệm.

III – SỰ «CẢI ĐẠO» TRÍ THỨC VÀ TINH THẦN

1 – NHỮNG CHƯỚNG NGẠI KHOA HỌC LUẬN

Người ta có thể tự hỏi vì sao nhân loại chỉ tiến tới một cách thức nghiên cứu tự nhiên – hầu như tất yếu phải như thế đối với chúng ta ngày nay – một cách trễ nãi và khó khăn như vậy; vì sao cả người Hy Lạp lẫn người Ả Rập đều không thành công trong việc xây dựng phương pháp thực nghiệm, dù đôi khi họ cũng loáng thoáng thấy nó; và vì sao, buổi đầu đời, phương pháp này còn phải đối mặt với bao khó khăn trước khi được thừa  nhận. Chính là vì nó còn phải vượt qua bao trở ngại nữa. Khoan  nói đến những cản trở ngoại tại, và có thể cho là tiêu cực – như sự thiếu thốn phương tiện quan sát hay vốn liếng toán học – còn có những lúng túng nội tại, và hoàn toàn tích cực, thuộc trình tự tình cảm cũng như tri thức, càng khó ý thức bao nhiêu thì càng khó chiến thắng hay chỉ đơn giản là phát hiện ra bấy nhiêu – tức là loại cản trở mà sau Bachelard* gọi là những «chướng ngại trong lý luận khoa học». Để có thể bước vào nghiên cứu tự nhiên trong một tinh thần thực sự khoa học, phải thay đổi não trạng, tiến hành một sự «cải đạo» trí thức và tinh thần. Không chỉ từ bỏ cái não trạng «hiện thực hay bản thể» của trường phái Aristotelês, nói theo từ Louis Rougier (1889-1982)[77] dùng để chỉ nó, mà còn phải tẩy khỏi đầu óc những tàn dư cổ hủ hơn nữa, của cái não trạng «vật linh hay ma thuật» và cái não trạng «tượng trưng hay thần bí», các loại não trạng mà tàn tích không chỉ còn rất dai dẳng, mà chính xác còn được phục hồi ngay trong thời Phục Hưng. Robert Lenoble* đã nhấn mạnh đúng đắn trên điểm này, khi ông chỉ ra rằng cái «chủ nghĩa tự nhiên» đương thời còn cách xa một sự lĩnh hội lành mạnh những hiện tượng tự nhiên đến đâu, và rằng nếu nó thực sự là đối lập thì nó cũng đánh dấu một bước lùi so với khoa học Kinh Viện, bởi nó quan niệm tự nhiên giống như một «cái hộp đầy phép lạ»[78]. Descartes không chỉ phải đương đầu với các «tiến sĩ» (docteurs) ở Sorbonne, mà còn phải vất bỏ mọi «học thuyết nhảm nhí» rất thịnh hành thời đó nữa: giả kim, chiêm tinh, ma thuật. Đừng quên rằng Bacon* vẫn còn giữ ma thuật trong bảng phân loại các khoa học của ông, và Kepler* còn khẳng định lòng tin vào ngành chiêm tinh.  

Ta có thể làm rõ hơn nữa, và xác nhận trong ba yếu tố cấu thành phương pháp thực nghiệm, cái gì là chướng ngại ở mỗi yếu tố.

a) Tập quán và uy tín của lối diễn dịch từ nguyên lý

Sự sử dụng diễn dịch một cách bình thường là lấy nó làm phương tiện chứng minh, trong nghĩa trực tiếp. Khởi đi từ các  tiên đề được cho là chắc chắn vì một lý do nào đó, ta truyền đạt sự chắc chắn của chúng cho những hệ quả từ đấy suy ra. Như vậy, ta có thể tiến tới trên một nền tảng vững chắc. Nói về khoa học chứng minh, cái duy nhất xứng đáng được gọi là khoa học theo ông, Aristotelês tuyên bố: «điều thiết yếu là nó phải khởi đi từ các tiên đề đúng, đầu tiên, trực tiếp, được biết rõ hơn và có trước những kết luận mà chúng là nguyên nhân»[79]. Và thật sự là khoa học chứng minh tiêu biểu nhất – toán học – đã hiện ra dưới hình thức xác quyết (catégorique) này cho đến gần đây. Cả Legendre* nữa chẳng hạn, còn tưởng rằng mình đã chứng minh được định đề song song* [của Eukleidês], bởi ông đã diễn dịch nó một cách chặt chẽ từ một vài mệnh đề mà ông đặt để như thể chúng là hoàn toàn hiển nhiên, mà có vẻ như không nhận thấy rằng ông chỉ thay đổi định đề khi làm như thế. Để lập luận từ giả thuyết (ex hypothesi) – từ những mệnh đề bị cho là khả nghi hay sai lầm – hầu như phải tự bạo hành bản thân mình. Trẻ em, một số người bệnh tâm thần, kẻ kém văn hóa thường không làm nổi một cố gắng như vậy: thay vì trả lời bằng cách rút ra những hệ quả từ các tiên đề độc đoán, họ phản bác chính các tiên đề: «Không đúng!» Ngay cả những người lớn có một trình độ tầm cỡ nào đó, cũng không phải luôn luôn thoát khỏi cám dỗ hiểu như xác quyết một diễn dịch được trình bày với họ như giả thuyết: họ theo cái tuyến ít gặp kháng lực nhất. Chứng cớ của nó là, thứ «nghịch lý muôn đời»[80] này, như Léon Brunschvicg (1869-1944)* từng gọi nó, mà các luận cứ nổi tiếng của Zeno* xứ Elea đã dẫn tới, khi ông ta dùng chúng để kết luận rằng không thể có chuyển động, như thể ông điên rồ tới mức nghi ngờ nó, như thể không phải ông ta muốn làm ngược lại, là dùng phép lý luận bằng phản chứng để chứng minh, thông qua cái sai hiển nhiên của kết luận, cái sai của giả thuyết từ đó kết luận này được rút ra.

b) Thái độ nhận thức duy tự nhiên chủ nghĩa

Thứ hai, có cần phải nói đi nói lại lâu lắc chăng, để hiểu ta đã phải làm một cố gắng não trạng phi thường đến đâu hầu từ bỏ thái độ nhận thức tự nhiên – thứ thái độ đã giúp ta nắm bắt cái hiện thực được cấu tạo bởi những phẩm chất cụ thể do giác quan của ta cung cấp – để thay thế nó bằng một cái nhìn hoàn toàn trí thức, trong đó hiện thực bị rút gọn vào một hệ thống tương quan toán học giữa các chiều kích trừu tượng? Còn gì nghịch lý hơn là đối lập, như thế, thế giới vật lý với thế giới cảm quan, còn gì rối loạn hơn là đẩy cái mặt trời đang làm chóa mắt tôi vào thế giới của hiện tượng, để đặt vào chỗ của nó, như mặt trời đích thực, cái mặt trời «được rút ra từ lý lẽ của khoa thiên văn học»? Cả ở đây nữa, sự kháng cự không chỉ giới hạn vào cấp thông kiến và những đầu óc kém mở mang. Và tất nhiên nó không chỉ được biểu hiện ở giới nghệ sĩ, những người vốn tự nhiên ưa chuộng mọi hương sắc của cảm quan – và ta sẽ thấy Goethe* mài miệt đả phá học thuyết của Newton về màu sắc chẳng hạn, để thay thế nó bằng một Farbenlehrer [khoa học về màu sắc] định tính của ông như thế nào –, mà ngay ở giới triết gia, như ở dòng duy hiện tượng luận (phénoméniste) từ Berkeley cho đến cả Bergson. Thậm chí ngay một nhà vật lý học như Pierre Duhem có lúc cũng còn mơ tưởng đến một sự thay da đổi thịt cho nền vật lý phẩm chất (định tính).

Vì sao con người đã sử dụng phương pháp thực nghiệm trễ như vậy là điều không dễ thấy tức thì. Bởi có hai hệ thống giá trị làm chướng ngại, đó là thế ưu tiên của lý thuyết [tư biện] trên thực hành, và thế ưu thắng của cái tự nhiên trên cái nhân tạo. 

2 – SỰ TỪ BỎ MỘT SỐ NÃO TRẠNG

a) Thói quen trân trọng tư biện và lý tưởng người hiền

Người ta có lý khi thường viện dẫn chế độ nô lệ để giải thích vì sao người Hy Lạp, với đầu óc tài ba như vậy, lại ít phát triển máy móc. Đấy là vì, như Pierre-Maxime M. Schuhl (1902-1984) đã giải thích: «sự tồn tại của chế độ nô lệ không những chỉ tạo ra các điều kiện khiến cho việc chế tạo máy móc để tiết kiệm nhân công là không đáng làm về mặt kinh tế, mà nó còn dựng lên cả một bậc thang giá trị đặc thù xem thường lao động tay chân»[81]. Tư biện cao hơn hành động, lý tưởng của người hiền nằm nơi cuộc sống trầm tư. Sự xem thường công việc thân xác sống lâu hơn chế độ nô lệ theo nghĩa chính xác, và còn kéo dài suốt thời Trung Cổ, khi những kỹ thuật «cơ khí» bị xem là thấp kém so với nghệ thuật «tự do». [các bộ môn «khai phóng»]. Ta đều biết những khó khăn mà các giới kiến trúc, hội họa và điêu khắc thời Phục Hưng đã phải đối phó, để rốt cuộc mới đạt được sự trọng thị ngang hàng với các giới bác học và thi sĩ; và cái luận cứ lớn nhất của họ là cả thứ nghệ thuật của họ nữa cũng đều là «món ăn tinh thần». Giới y sĩ được đặt cao trên bậc thang xã hội nhờ họ biết tiếng la-tinh và làm việc với sách vở, trong khi giới phẫu thuật bị hạ xuống cùng một cấp với phường hội thợ cạo[82], bởi vì họ chỉ là những «nghề tay chân» như tên gọi. Dễ hiểu là một tâm thái như thế không khích lệ các nhà bác học rờ tới, thậm chí nghĩ tới, những thiết bị thử nghiệm; trong khi về phần họ, các nhà tiểu công nghiệp cũng không có lý do gì để chế tạo loại công cụ đó, cho dù nếu muốn là có phương tiện. Và nếu vào cuối thời Trung Cổ, vai trò của nó được đánh thức, thế giới kỹ thuật tương đối vẫn còn bị cách ly với những công trình khoa học, trừ ở một vài bộ óc siêu đẳng như ở Leonardo* [da Vinci, 1452-1519]. Như S. F. Mason (1923-2007)* ghi lại: chỉ trong thế kỷ XVI «cái rào chắn giữa hai truyền thống tiểu công và thông thái, từng chia cách kỹ thuật máy móc với nghệ thuật tự do, mới bắt đầu nhòa»[83]. Và một trong những ý tưởng mấu chốt của Bacon chính là sự cần thiết phải dùng cái này để làm cho cái kia phong phú hơn, là kết hợp khả năng suy lý với khả năng thực nghiệm hay, như ông ta còn nói, làm cho khoa học trùng hợp với năng lực.

b) Thái độ tôn kính tôn giáo trước thiên nhiên

Sự mất giá của các khoa học cơ khí, bị xem là thấp hèn, còn được củng cố bởi một lối đánh giá thứ hai, khiến cho sự thiếu hấp dẫn của thực tiễn thí nghiệm chỉ có thể biến thành ghê tởm thực sự, đấy là thái độ tôn kính tôn giáo trước thiên nhiên, với mặt đối xứng là một tình cảm sợ sệt mơ hồ trước các xưởng nghề, nơi luôn luôn bị nghi ngại vốn có cái gì đó quỷ quái. Thiên nhiên là tạo phẩm của Thượng Đế. Bất cứ ai cả gan muốn thay đổi nó đều tự đặt mình ngang hàng với Ngài, bởi chính sự ngông cuồng của mình. Hành động bất kính, và hơn nữa, hoàn toàn vô ích, bởi con người làm sao có thể hy vọng tài giỏi hơn Thượng Đế? Với sự «kiêng kị [bắt chước] cái tự nhiên» này, thực tiễn thí nghiệm chỉ có thể bị xếp vào loại «học thuyết sai lầm», và bị xem như phần tiếp nối của những thực hiện ma thuật, đúng như R. Lenoble đã nói. Dù có cố tạo ra ý niệm «ma thuật tự nhiên» cũng vô ích thôi: nó luôn luôn mang chút hương vị dị giáo.   

c) Bernard Palissy, trường hợp nước đôi hay bước ngoặt?

Trong sự chống đối thực tiễn thí nghiệm chung này, hai lối đánh giá trên được hợp nhất và, qua đó, trở thành mạnh mẽ hơn. Kỹ thuật đi đôi với thực hành, như lý thuyết cặp đôi với sự quan sát tự nhiên đơn thuần. Nhờ vậy mà một lỗ hổng tự động mở ra, khi hai vế này bắt đầu tách rời. Một minh họa đủ ấn tượng để có thể lấy làm ví dụ ở đây được cung cấp qua trường hợp của Bernard Palissy (1510?-1589?)*, ở nửa sau của thế kỷ XVI. Một mặt, vì là người theo thần học Calvin một cách khắc khổ, Palissy tôn sùng tạo phẩm của Thượng Đế và đánh giá rằng kỹ thuật không thể thành công nếu nó bạo hành tự nhiên: bởi vì «mọi bạo hành đều không thể trường tồn… Không thể bắt chước tự nhiên về bất cứ chuyện gì được, trước hết bởi vì ta chỉ thấy những hiệu ứng của tự nhiên này mà tưởng là thầy chỉ đạo mẫu mực, và bởi vì chỉ có những sự vật hoàn hảo trên đời trong tạo phẩm của Thượng Đế mà thôi»[84]. Tuy nhiên, cách bắt kỹ thuật phải phục tùng tự nhiên ấy, một mặt, quét sạch mọi nghi ngờ bất sùng tín đối với Palissy – bởi ông tìm cách sao chép chứ không phải chống báng những tạo phẩm của Thượng Đế –, mặt khác, cho phép nhà tiểu công không biết tý cổ ngữ Hy Lạp hoặc La-tinh nào lật ngược tôn ti trật tự truyền thống giữa lý thuyết với thực hành, và đặt sự tích cực cật vấn tự nhiên trên những bài học thụ động được rút ra từ sách vở. Trong Lời nói đầu của quyển Discours admirables…(1580), Palissy giải thích như sau: «Bạn đọc thân mến, để việc đọc quyển sách này là thật sự hữu ích, tôi buộc phải đưa ra lời cảnh báo sau: bạn nên tránh để đầu óc đắm say trong thứ lý thuyết tưởng tượng của loại khoa học bàn giấy, hay moi móc từ một quyển sách nào đó được viết ra từ mộng mị của kẻ chưa bao giờ biết thực hành là gì; và hãy tránh tin vào ý kiến của bất cứ ai quả quyết rằng lý thuyết đẻ ra thực hành… Tôi muốn hỏi những người đó – sau nửa thế kỷ đọc sách về vũ trụ học và hàng hải học, lại được trang bị nào bản đồ của mọi vùng biển, nào địa bàn đi biển, nào compa và đủ thứ công cụ thiên văn khác – liệu họ có dám nhận lái thuyền đi khắp mọi nước như một hoa tiêu thực nghiệp và thiện nghệ hay không? Họ sẽ tránh tự đặt mình vào việc nguy hiểm, dù đã học bao nhiêu lý thuyết đi nữa; và sau khi đã tranh cãi rốt ráo, họ sẽ phải thú nhận rằng thực hành đẻ ra lý thuyết mà thôi. Tôi viết lời nói đầu này hầu khép miệng những kẻ hay nói: làm sao một người không đọc sách triết bằng tiếng La-tinh lại có thể biết gì và phát biểu gì về hiện tượng tự nhiên cơ chứ? Loại ngôn từ này không thể nhắm vào tôi, bởi vì tôi đã từng chứng minh ở nhiều nơi, bằng thực hành, rằng lý thuyết của nhiều triết gia, ngay cả các vị nổi tiếng và cổ xưa nhất, là sai bét. Bằng cách chứng minh những lý lẽ từng được viết ra minh bạch của mình, tôi đã thỏa mãn đường hoàng cả thị giác, thính giác lẫn xúc giác: vì vậy, những kẻ chuyên phỉ báng không còn lý do gì hòng nhắm vào tôi hết»[85]. «Sự kết nối con người vào tự nhiên»biểu thức mà sau Francis Bacon dùng để định nghĩa kỹ thuật đã được biện giải và nâng cấp như thế, như giai đoạn mở đường cho cái sẽ từng bước trở thành nền vật lý của phòng thí nghiệm ngày nay.        

Robert Blanché,
Sự Thiết Lập Phương Pháp Thực Nghiệm – Bài Dẫn Nhập
(L’Instauration de la méthode expérimentale – Introduction)
Trg: Phương Pháp Thực Nghiệm Và Triết Lý Của Vật Lý Học,
(La Méthode expérimentale et la philosophie de la physique,
Paris, A. Colin, 1969, tr. 7-36).


[1] Raphaël (1483-1520, tên tắt của Raffaello Sanzio hay Raffaello Santi, hay Raffaello da Urbino hay Raffaello Sanzio da Urbino): họa sư và kiến trúc sư người Ý, được xem là một trong ba bậc thầy của thời Thịnh Phục Hưng, cùng với Michelangelo (1475-1564), Leonardo da Vinci (1452-1519). NVK

[2] Về điểm này, xem các lưu ý thích đáng của R. Lenoble trong Origines de la pensée scientifique moderne (Trg: Histoire des sciences, Paris: Gallimard, 1957, tr. 378 và tiếp theo). RB. Robert Lenoble (1902-1954): tu viện trưởng, triết gia, và sử gia khoa học Pháp. Tác phẩm chính: Mersenne ou la naissance du mécanisme (1943), Essai sur la notion d’expérience (1943), Esquisse d’une histoire de l’idée de nature (1969). NVK

[3] Các sử thi mang tính thần thoại thời Cổ đại. Aeneis* là sử thi La Mã; Odysseia* là sử thi Hy Lạp. NVK

[4] Trích dẫn bởi E. Cassirer*, Das Erkenntnisproblem in der Philosophie und Wissenschaft der neueren Zeit (Berlin, Bruno Cassirer, 1907, xbl 2, 1911, q. I, tr. 379). RB. Ernst Cassirer (1874-1945): triết gia Đức gốc Do Thái, được xem là thuộc một trong hai trường phái Hậu-Kant là triết phái Marburg. Cassirer trước tác trong nhiều lĩnh vực triết học;  tác phẩm được biết nhiều nhất của ông là Philosophie der symbolischen Formen, 3 q., 1923–29 = Philosophy of Symbolic Forms, 1953–1957.  NVK

[5] Trong số các tác phẩm của Galileo Galilei, có hai đối thoại: Dialogue Concerning the Two Chief World Systems (Dialogo dei due massimi sistemi del mondo, 1632) và Discourses and Mathematical Demonstrations Relating to Two New Sciences (Discorsi e Dimostrazioni Matematiche, intorno a due nuove scienze, 1638). Hai nhân vật chính trong các đối thoại này là Simplicio (đại diện cho nền khoa học cũ của Aristotelês) và Salviati (đại diện cho các quan điểm khoa học mới). NVK

[6] Tên Simplicio có thể do từ «semplice» (simple-minded, simplet = ngây ngô, thiển cận), nhưng cũng có thể ám chỉ hai nhân vật có thật là Simplikios thành Kilikia (Simplicius of Cilicia, xem chú thích 25 bên dưới), và thậm chí là Giáo hoàng Urbanus VIII theo một số tác giả. Mặt khác, nhân vật Simplicio này còn là chân dung tổng hợp của hai triết gia và địch thủ đương thời của Galileo là Lodovico delle Colombe (1565–1616?) và Cesare Cremonini (1550–1631)*.

[7] Xem: E. Cassirer, sđd, tr. 381-382.

[8] Thought experiment = expérience en pensée, có thể được dịch sang tiếng Việt là thí nghiệm bằng tư duy hay thí nghiệm tưởng tượng. Đây là một «sáng kiến của trí tưởng tượng, được sử dụng nhằm khám phá ra bản chất của sự vật = devices of the imagination, used to investigate the nature of things» (James Robert Brown & Yiftach Fehige). Xem trên trang mục này các bản dịch liên quan khi có thể tham khảo. NVK.

[9] Pierre Gassendi (hay Pierre Gassend, hay Petrus Gassendi, 1592-1655): nhà toán học, thiên văn học, thần học, triết gia và mục sư  Pháp thời Phục Hưng. Trước tác (bằng tiếng La-tinh) của ông được tập hợp trong: Pierre Gassendi Toàn Tập (Œuvres complètes, 6 q., 1658). NVK

[10] Xem: H. Butterfield, The Origins of Modern Science (London, G. Bell & Sons, 1958, ch. V, tr. 81-83). Xem: A. Koyré, Galilée et l’expérience de Pise : à propos d’une légende, trg: Études d’histoire de la pensée scientifique (Paris, Gallimard, 1966, tr. 213-223). RB. Herbert Butterfield (1900-1979): sử gia và triết gia người Anh. Tác phẩm chính: The Whig Interpretation of History (1931); Origins of Modern Science (1949). NVK

[11] Giorgio Coresio (1570-1659), người gốc ở đảo Chios, từng làm giảng viên tại Đại học Pisa (1609-1615), nhưng phải từ nhiệm vì bị phát hiện đã rao giảng Ki-tô giáo phương Đông (theo văn hóa Hy Lạp) sau cuộc Đại Ly giáo hay Ly giáo Đông–Tây, hoặc bị mắc bệnh tâm thần. NVK

[12] Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi trong thí nghiệm đã được thực hiện, đây không phải là sự rơi tự do.

[13] «Tôi đã được lý trí thuyết phục trước khi được kinh nghiệm bảo đảm» (phần bổ túc của Exercices philosophiques d’Antonio Rocco). Về sau, ông còn viết về việc sử dụng toán học của ông trong nghiên cứu về chuyển động như sau: «Tôi đã lập luận từ giả định (ex suppositione) về chuyển động được định nghĩa như thế, để ngay cả khi kết quả không hợp với những bất ngờ trong chuyển động tự nhiên của vật nặng khi rơi, điều đó là không quan trọng đối với tôi» (thư gửi G. B. Baliani, 7-1-1639; được trích dẫn trong: P. H. Michel, Galilée - Dialogues et lettres choisies, Paris, Hermann, 1966, tr. 426). Nhưng chính ông Baliani này, trong khi vẫn tự hào đã gặp gỡ Galileo trên nhiều điểm, luôn luôn cải chính ông từng là một trong những người thán phục và đứng về phe Galileo: «Phải thấy rằng tôi, tôi dựa trên những nguyên lý hoàn toàn khác, nghĩa là trên kinh nghiệm» (thư gửi Mersenne, 10-1647; được trích dẫn trong: S. Moscovici, L’Expérience du mouvement, Paris, Hermann, 1967, tr. 22).   

[14] Xem: S. Moscovici, sđd, tr. 49. Xem: A. Koyré, Une expérience de mesure, trg: Études d’histoire de la pensée scientifique (Paris, Gallimard, 1966, tr. 289-319). RB. Serge Moscovici (tên gốc Srul Herș Moscovici, 1925-2014): sử gia khoa học, nhà tâm lý xã hội học, nhà hoạt động môi trường Pháp gốc România. Tác phẩm tiêu biểu: L'Expérience du mouvement: Jean-Baptiste Baliani (1967); Essai sur l’histoire humaine de la nature (1968, 1977); La Société contre nature (1972, 1994); Hommes domestiques et hommes sauvages (1974); Social influence and social change (1976); Psychologie des minorités actives (1979); L'Âge des foules: un traité historique de psychologie des masses (1981); La Machine à faire les dieux (1988); Social Representations: Explorations in Social Psychology (2000);  De la nature: pour penser l’écologie (2002); Réenchanter la nature (2002); The Making of Modern Social Psychology (với Ivana Markova, 2006); Raison et cultures (2012);  Le scandale de la pensée sociale (2013). NVK

[15] Về phép quy nạp trong các khoa học chứng minh, xem thêm: Henri Poincaré, Quy Nạp Toán Học trên trang Toán Học khi có thể tham khảo.

[16] Xem: É. Bréhier, Histoire de la philosophie (Paris, Alcan, 1929, q. 2, tr. 25). RB. Émile Bréhier (1876-1952): triết gia Pháp chuyên về triết học cổ điển và lịch sử triết học. Tác phẩm chính: Histoire de la Philosophie (7 q., sau rút còn 2 q., 1928-1932). NVK

[17] Vicenzio di Gracia (15..-16.., hay Vicentio di Gracia, Vicentius Gracia), nhà toán học, thần học và triết gia người Ý. Xin đừng nhầm với Vicenzo de Gracia (1785-1856), một triết gia Ý khác (người chống chủ nghĩa phê phán của Kant và chủ nghĩa duy tâm của Hegel nhân danh kinh nghiệm) khoảng 2 thế kỷ sau. NVK

[18] Xem: Le Opere di Galileo Galileo (Florence, q. XII, 1854, tr. 513).           

[19] Ở đây, R. Blanché dùng các từ cũ, nay không còn phổ biến, là «méthode résolutive» và «méthode compositive», nên chúng tôi không tìm cách chuyển ngữ mà dịch thẳng theo giải thích của Blanché như trên. NVK

[20] Đào Duy Anh, Hán Việt Từ Điển.

[21] Từ Hy Lạp gốc là ὑπόθεσις, hypóthesis («đặt ở dưới» – như cơ sởcủa một lập luận, một giả định), do ὑποτίθημι, hupotíthēmi («tôi đặt trước mặt, tôi đề nghị», được cấu tạo từ ὑπό, hupó = «ở dưới» + τίθημι, títhēmi = «tôi đặt»). Về sự tiến hóa của khái niệm và vai trò của giả thuyết trong khoa học nói chung, xem các bản dịch liên quan của Osiander, Newton, Whewell, Bernard, v. v… trên trang mục Triết Lý Khoa Học khi có thể tham khảo. NVK

[22] Pappos thành Alexandreia (khg 290-350): một trong những nhà toán học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại. Tác phẩm chính: Synagôgê (Tập Hợp Toán Học = Collection, 8 q., khg năm 340), một tập hợp vừa hướng dẫn, vừa bình giải về các công trình toán học thuộc nhiều lĩnh vực của trên 30 nhà toán học cổ đại đương thời. NVK

[23] Proklos thành Lykia (Proclus Lycaeus = Proclos thành Lycie, 412-485), hay Próklos ho Diádokhos (Proklos Kẻ Kế Thừa = Proclus the Successor = Proclos le Diadoque): triết gia Hy Lạp thuộc trường phái Tân-Platôn ở Athênai, người đã triển khai một trong các hệ thống Tân-Platôn đầy đủ nhất và có ảnh hưởng lớn trên nền triết học Tây Phương thời Trung Cổ. Tác phẩm chính đã được dịch sang tiếng Anh: Bình luận về các đối thoại của Platôn, Bình luận về quyển Cơ Sở I của Eukleidês, Platonic Theology, Elements of Theology, Elements of Physics. NVK.

[24] Mario Pieri (1860-1913): nhà toán học người Ý được biết tới nhờ những công trình nghiên cứu về nền tảng của hình học. Tác phẩm của ông được tập hợp trong: Opere sui fondamenti della matematica (Bologna, Ed. Cremonese, 1980). NVK

[25] Simplikios thành Kilikia (Simplicius of Cilicia, Simplice hay Simplicios de Cilicie, 490-560; Kikilia nay thuộc Turkey) là một triết gia Tân-Platôn trong thế kỷ thứ VI, và là nhà bình luận về tư tưởng của Aristotelês và Epiktêtos (triết gia Khắc Kỷ, 55-135). Thái độ triệt để của ông ta khi bênh vực tư tưởng của Aristotelês đã khiến ông trở thành nhân vật bia nhắm của Galileo Galilei trong công cuộc đả phá nền khoa học cũ. NVK

[26] Về các đoạn văn trên của Proklos và Simplikios, xem: P. Duhem, Le Système du monde: histoire des doctrines cosmologiques de Platon à Copernic (Paris, Hermann, q. II, 1914, tr. 67-68 và 105-106).

[27] Apollônios (khg 262-190 tCn) là nhà thiên văn và nhà toán học Hy Lạp (thời Hy Lạp hóa*) nổi tiếng nhờ các công trình liên quan tới những đường conic. Về toán học, phương pháp và thuật ngữ của ông đã ảnh hưởng tới nhiều học giả đời sau, và nhiều thuật từ (ê-lip, parabol, hyperbol) vẫn còn được dùng cho đến nay. Về thiên văn, tên ông được đặt cho một miệng hố trên Mặt Trăng. NVK

[28] Theo giả thuyết lệch tâm (eccentric motion), hành tinh P chẳng hạn di chuyển quanh Trái Đất theo một quỹ đạo hình tròn có tâm điểm là O, nhưng so với vị trí tâm điểm E của Trái Đất, thì O lệch sang một bên E; kết quả là nhìn từ địa cầu, khoảng cách của P với Trái Đất (và do đó, độ sáng của nó) thay đổi suốt con đường di chuyển hàng năm của hành tinh này. Theo phiên bản đơn giản nhất của giả thuyết vòng ngoài, hành tinh P di chuyển theo đường tròn quanh một điểm S gọi là ngoại luân (epicycle) với tốc độ không đổi; đồng thời điểm S này cũng di chuyển theo một đường tròn khác lớn hơn gọi là đường dẫn (deferent) quanh Trái Đất, với tâm điểm E cũng là tâm điểm của Trái Đất, và với tốc độ cũng không đổi. Cả hai đều chỉ là những «mẹo toán», nghĩa là giả thuyết theo nghĩa định đề. Xem thêm các bài dịch về lịch sử thiên văn học ở Hy Lạp cổ đại trên trang mục Vật Lý và Thiên Văn Học khi có thể tham khảo. NVK

[29] (H)Ipparkhos (190-120 tCn) là nhà thiên văn học, nhà toán học, nhà địa lý học người Hy Lạp (thời Hy Lạp hóa). Về thiên văn, ông đã xác định vĩ tuyến và kinh tuyến của hoàng đạo, của 850 ngôi sao, đưa ra khái niệm cấp sao biểu kiến, phát hiện ra hiện tượng tuế sai trong chuyển động của các hành tinh, tính toán chính xác độ dài của 1 năm và khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trăng. Về toán học, (H)Ipparchus là một trong những nhà tiên phong về lượng giác học. NVK.

[30] Xem: Epikouros, Lettre à Pythoclès. Bản dịch của O. Hamelin (Revue de métaphysique et de morale, 1910, tr. 420). RB. Octave Hamelin (1856-1907)*: triết gia Pháp, dịch giả của nhiều triết gia Hy Lạp cổ đại. NVK

[31] Andreas Osiander (1498-1552)* nhà thần học Phổ theo khuynh hướng cải cách của Martin Luther*. Ông chủ yếu được biết tới như người đã xuất bản tác phẩm cách mạng của Kopernik, nhưng với một bài tựa mang nội dung gây tranh cãi như trên (bởi vì dù được viết ra nhằm bênh vực Mikolaj Kopernik, nó lại biểu thị quan điểm hình thức và công thức «cứu giữ hiện tượng» của các nhà thiên văn Hy Lạp cổ đại, vốn không phải là quan điểm hiện thực của Kopernik). Xem bản dịch bài tựa này trên trang mục Vật Lý & Thiên Văn Học khi có thể tham khảo. NVK.

[32] Roberto Francesco Romolo Bellarmino (Robert Bellarmin(e), 1542-1621), linh mục, nhà thần học dòng tên, người bênh vực quan điểm truyền thống của Giáo hội Ki-tô giáo nổi tiếng người Ý. Ông được tấn phong Hồng Y năm 1599, và trong tư cách thành viên của Tòa án Dị giáo (Sacra Congregazione della romana e universale inquisizione, được Giáo Hoàng Paulus III dựng lên từ năm 1542), tham gia tích cực vào phiên xử đã kết án Giordano Bruno (1592-1600) và những cuộc tranh cãi chung quanh các tác phẩm của Galileo Galilei (1632-1633). NVK

[33] Về đoạn này, xem: A. Lalande, Les Théories de l’induction et de l’expérimentation (Paris, Boivin, 1929, Ch. V: Développement de l’hypothèse-conjecture). André Lalande (1867-1963): triết gia Pháp. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là quyển từ điển triết học Vocabulaire technique et critique de la philosophie (1927, 2006).

[34] Petrus Ramus (Pierre de La Ramée, khg 1515-1572): nhà lô-gic học và triết gia Pháp, được xem là một trong các nhà bác học nhân bản nhất trong thế kỷ XVI. Ông cải đạo từ Cơ Đốc giáo sang thần học của Jean Calvin, và bị ám sát khi xảy ra các cuộc tàn sát người Huguenots (những người Pháp theo nền thần học Calvin thuộc Giáo hội Cải cách Kháng Cách tại Pháp) trong ngày lễ Thánh Barthélemy (24-8-1572). NVK

[35] Collège Royal (Trường Hoàng Gia) là tên đầu tiên của Collège de France* ngày nay (Trường Quốc Học Pháp). NVK

[36] Xem: F. Bacon, De Dignitate et augmentis scientiarum, III, ch. IV.

[37] Trong phần đầu của Astronomia nova; được trích dẫn bởi: A. Koyré, La Révolution astronomique : Copernic, Kepler, Borelli (Paris: Hermann, 1961, tr. 394). Xem: sđd, tr. 96-97, 129-131, 381-382.

[38] Tycho Brahe (Tyge Ottesen Brahe, 1546-1601): nhà thiên văn học, nhà chiêm tinh và nhà giả kim người Đan Mạch. Ông được xem là cha đẻ của ngành thiên văn quan sát trước khi có kính viễn vọng. Ngoài việc khám phá ra một sao mới trong chòm sao Cassiopeia (nay gọi là sao SN1572, cách Trái Đất 7500 năm ánh sáng), Tycho Brahe còn để lại một học thuyết về hệ thống các hành tinh mang tên ông. Ở đây, Tycho Brahe bác bỏ cả hai thuyết nhật tâm và địa tâm mà đưa ra một hệ lai tạp, cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, trong khi mọi hành tinh khác quay quanh Mặt Trời. NVK.

[39] Trong Từ điển của ông, Paul Robert ghi ở từ Hypothèse rằng: «cho đến cuối thế kỷ XVIII, từ này chỉ mọi mệnh đề được nhận để từ đấy suy ra nhiều mệnh đề khác, mà không đòi hỏi là nó phải đúng hay sai». Có lẽ ông muốn nói rằng cái nghĩa hypothèse-postulat (giả thuyết như định đề) là thông dụng cho đến cuối thế kỷ XVIII, nhưng không phải vì thế mà nó là nghĩa duy nhất, tuy cái nghĩa hypothèse-conjecture (giả thuyết như ước đoán) còn ít được sử dụng và chưa được biết tới nhiều. Bởi chính ông vừa trích dẫn, vài dòng ở trên, cái định nghĩa mà Denis Diderot* đã đưa ra trong Bách Khoa Toàn Thư ở từ hypothèse, và rõ ràng là tại đây nó được hiểu theo nghĩa ước đoán.

[40] Xem: B. Pascal, Fragment d’un traité du vide.

[41] Disputationes pro et contra (loại bài học luyện khả năng tranh luận, trước tập bênh, và sau tập chống lại một lập trường nào đó).

[42] Xem: R. Descartes, Discours de la méthode, phần 2.

[43] Xem: B. Pascal, Les Provinciales (tựa đầy đủ : Lettres écrites par Louis de Montalte à un provincial de ses amis et aux RR. PP. Jésuites sur le sujet de la morale et de la politique de ces Pères) là một tập hợp 18 bức thư, viết khoảng 1656-1657, trước hết nhằm bênh vực nhà thần học Antoine Arnauld (bị kết tội theo giáo phái của Cornelius Jansen), nhưng sau đó phê phán luôn cả Dòng Tên, đặc biệt về sự lỏng lẻo của nhiều cố đạo trên các vấn đề thần học có nghi nghĩa. NVK

[44] Robert Hooke (1635-1703), triết gia và nhà khoa học đa ngành Anh, được xem là một trong những nhà khoa học kinh nghiệm chủ nghĩa lớn nhất thế kỷ VII và nhân vật mấu chốt của cuộc cách mạng khoa học đương thời. Trước tác của ông được tập hợp trong: Collection of Lectures: Physical, Mechanical, Geographical and Astronomical (1679), The Posthumous Works of Robert Hooke (1705). NVK

[45] Robert Boyle (1627-1691): nhà khoa học Ki-tô giáo người Anh, được xem là một trong các bố đẻ của khoa hóa học hiện đại, là nhà tiên phong trong khoa học thực nghiệm. Tác phẩm chính: The Sceptical Chymist (1661); Some considerations touching the Usefulness of Experimental Natural Philosophy (1663); A Disquisition about the Final Causes of Natural Things (1688); The Excellency of Theology compared with Natural Philosophy (1674); The Christian Virtuoso (1690); và tuyển tập The Works of the Honourable Robert Boyle (6 q., 1772). NVK.

[46] Xem: G. Leibniz, Nouveaux essais sur l'entendement humain, IV, XVI, 9.

[47] Xem: G. Leibniz, Thư gửi Conring, 19-3-1678 (Phil. Schr., Gerhardt, I, tr. 195-196).

[48] Xem: G. Leibniz, Nouveaux essais sur l'entendement humain, IV, VI, 13.

[49] Trích dẫn bởi A. Koyré, sđd, tr. 146.

[50] Xem: E. Cassirer, Determinismus und Indeterminismus in der modernen Physik (Goteborg, 1937, tr. 41).

[51] Theo nghĩa của Descartes. «Với kích thước, tôi chẳng hiểu gì khác hơn là cái phương thức và mối tương quan qua đó một đối tượng bất kỳ được xem là có thể đo lường được, nghĩa là hiểu thế nào để không chỉ có chiều dài, chiều rộng và chiều sâu là những kích thước của vật thể thôi, mà sức nặng còn là kích thước qua đó đối tượng được cân đo, tốc độ còn là kích thước của chuyển động, và vô số những thứ khác cùng loại như vậy nữa» (Regulae, XIV; G. Le Roy dịch, Boivin, 1933, tr. 175). Hay, đơn giản hơn: «Ta còn có thể, khi thấy có bao nhiêu chất lượng khác nhau để đo lường ở mỗi vật thể, thì gán cho nó bấy nhiêu kích thước khác biệt» (Thư gửi Debeaune, 30-4-1639; Trg: Oeuvres philosophiques, F. Alquié chủ biên, Paris, Garnier, 1967, q. II, tr. 129).

[52] G. Bénézé đã ghi nhận đúng đắn rằng, nhờ đo lường, con số cũng can thiệp vào sự quy định những cái bất biến vốn là loại thực thể thường gặp của nhà vật lý học. Thí dụ: khi trọng lượng và sự gia tốc được đo riêng, người ta thấy rằng tỉ số P/G là không đổi, và sự ổn định này định nghĩa cái bất biến gọi là khối lượng trong cơ học cổ điển. Những thực thể vật lý thoát khỏi tri giác đã hiện ra như vậy, như ở trường hợp hiển nhiên trong lĩnh vực điện từ. Chỉ cần các phương trình đưa ra những con số không đổi, là những bất biến này sẽ có chỗ đứng trong thế giới vật lý, và chính đáng hơn loại phẩm chất cảm tính rất nhiều. RB. Georges Bénézé (1888-1978): triết gia Pháp. Tác phẩm: Allure du transcendantal (1936); Valeur: Essai d'une théorie générale (1936); La Méthode expérimentale (1954); Généreux Alain (1962); Le nombre dans les sciences expérimentales (1962).

[53] Xem: Percy W. Bridgman*, The Logic of Modern Physics (New York, McMillan, 1927, ch. I).

[54] Xem: Jean Ullmo*, La Pensée scientifique moderne (Paris: Flammarion, 1958, tr. 28), và trên trang mục Triết lý Khoa Học ở đây: Jean Ullmo, Định Nghĩa Thao Tác.

[55] Xin nhắc lại rằng, vật lý học đương thời được xem là một phần của triết học, và danh giá hơn toán học.

[56] Galileo Galilei, Thư gửi Belisario Vinta (7-5-1610); Trg : P. H. Michel, sđd, tr. 360.

[57] Galileo Galilei, Thư gửi Fortunio Liceti, (1-1641); Trg : P. H. Michel, sđd, tr. 430.

[58] Jean Perrin (1870-1942): nhà vật lý học và hóa học người Pháp, giải Nobel về vật lý học năm 1926. Tác phẩm khoa học chính: Les Principes: exposé de thermodynamique (1901); Traité de chimie physique (1903); Les Atomes (1913, 1948, 1970) ; Les Éléments de la physique (1929, 1947); Les Formes chimiques de transition (1931); La Recherche scientifique (1933); Grains de matière et grains de lumière (1935, 1948, 2018); L'Organisation de la recherche scientifique en France (1938); À la surface des choses: physique générale (1940-1941); La Science et l'Espérance (1948); Œuvres scientifiques de Jean Perrin (1950). NVK

[59] Hằng số Avogadro (ký hiệu NA hoặc L) là một hằng số tỉ lệ thuận liên hệ số hạt (nguyên tử, phân tử hoặc ion) trong một mẫu với lượng chất trong mẫu đó. Hằng số Avogadro có đơn vị là nghịch đảo của mol, và được xác định là NA = 6,022 140 76 × 1023 mol-1 (mol là đơn vị lượng chất trong hệ đo lường quốc tế SI, được chấp nhận năm 1971). Nói tóm gọn, hằng số Avogadro là số nguyên tử có trong 1 mol chất. Đây là một con số rất quan trọng trong vật lý và đặc biệt là hoá học, được đặt tên theo nhà vật lý và hóa học người Ý Amedeo Avogadro (Lorenzo Romano Amedeo Carlo Avogadro, 1776-1856). Tác phẩm của ông nay được tập hợp trong: Opere scelte di Amedeo Avogadro (1911).

[60] Xem: A. Koyré, Etudes galiléennes (Paris, Hermann, xbl 2., 1966, tr. 15).

Xem: J. Piaget*, Introduction à l’épistémologie génétique (Paris, PUF, q. II, 1950, tr. 79-83).

[61] Xem: V. Delbos, La Préparation de la philosophie moderne  (Revue de métaphysique et de morale, 1930, tr. 321). RB. Victor Delbos (1862-1916) : triết gia và sử gia người Pháp. Tác phẩm: Le problème moral dans la philosophie de Spinoza et dans l'histoire du spinozisme (1893); La philosophie pratique de Kant (1905); L'esprit philosophique de l'Allemagne et la pensée française (1915); Le Spinozisme (1916, 1987, 2005); Figures et doctrines de philosophes (1918); La Philosophie française (1919); Étude de la philosophie de Malebranche (1924); Maine de Biran et son œuvre (1931). 

[62] Về điểm này, thư từ trao đổi của Descartes cho khá nhiều thông tin, cụ thể là những bức thư gửi cho Ferrier vào cuối năm 1629.  

[63] Như: Accademia del Cimento (Florence, 1657), Royal Society (London, 1662), Académie des Sciences (Paris, 1666).

[64] Xem: M. Daumas, Les Instruments scientifiques au XVIIe et XVIIIe siècles (Paris, PUF, 1953). RB. Maurice Daumas (1910-1984): nhà hóa học, sử gia khoa học và kỹ thuật người Pháp.  Tác phẩm: Les matières plastiques (1941); Lavoisier: Théoricien et Expérimentaleur (1941, 1955); Arago (1943, 1987); L’Acte Chimique: Essai sur l’histoire de la philosophie chimique (1945); Les Instruments Scientifiques aux XVIIe et XVIIIe siècles (1953, 2003) = Scientific Instruments of the Seventeenth and Eighteenth Centuries and their Makers (1972); Histoire générale des techniques (5 q.,  1962– 1979); L'archéologie industrielle en France (1980); Les Grandes Étapes du Progrès Technique (1981); Le cheval de César ou le Mythe des révolutions techniques (1985, 1991). NVK

[65] Perspicillum (từ Galileo đặt ra trong Sidereus Nuncius, năm 1610). Do động từ perspiciō = See through something = Voir au travers de; Perceive or discern clearly = Percevoir avec clarté. Perspicillum có thể được hiểu là cái giúp ta thấy rõ, cái khiến ta sáng suốt. NVK

[66] Xem: A. Koyré, From the Closed World to the Infinite Universe (Baltimore, 1957, ch. IV, tr. 90).

[67] Xem: M. Daumas,  Esquisse d’une histoire de la vie scientifique, trg: Histoire de la science (Paris, Gallimard, 1957, tr. 122).

[68] Jacques Rohault (1618-1672): triết gia, nhà vật lý và toán học Pháp. Ông theo học và tích cực phổ biến tư tưởng của Descartes về vật lý, góp phần làm suy thoái học thuyết của Aristotelês và chủ nghĩa Kinh Viện. Đóng góp độc đáo nhất khiến ông nổi tiếng là các buổi thí nghiệm vật lý có bình luận và tranh luận, được tổ chức mỗi thứ tư tại nhà riêng từ năm 1650. Tác phẩm chính: Traité de Physique (1671), Entretiens sur la Philosophie (1672), và tập hợp Œuvres posthumes de M. Rohault (1682). NVK

[69] Do Hoàng hậu Jeanne de Navarre Đệ nhất (vợ Vua Philippe Le Bel, trị vì 1285-1314) cho xây tại Paris từ tiền bán di sản riêng (viên đá đầu được đặt năm 1309), để nhận học viên từ quê hương Navarre của bà; nhưng thật ra, Trường nhận mọi học viên nghèo, không phân biệt điều kiện xã hội hoặc tuổi tác. Collège de Navarre chỉ dạy thần học, lô-gic học và ngữ pháp, không dạy y học và luật học; được xem là thuộc hệ thống Đại học Paris lịch sử, cạnh tranh với Sorbonne, và nổi tiếng nhờ thư viện của nhà trường. Trong thời Đại Cách Mạng, Trường bị dẹp bỏ, thư viện bị phân tán, và văn khố bị thất lạc. Năm 1805, Napoleon cho lập Trường Bách Khoa tại địa điểm và từ những cơ sở cũ của Collège de Navarre. NVK

[70] Jean-Antoine Nollet (1700-1770): tu viện trưởng, nhà vật lý học Pháp. Tác phẩm: Cours de physique expérimentale (1735); Leçons de physique expérimentale (6 q., 1743-1764); Conjectures sur les causes de l'électricité des corps (1745); Observations sur quelques nouveaux phénomènes d'électricité (1746); Essai sur l'électricité des corps (1750); Recherches sur les causes particulieres des phénomènes électriques (1749); Lettres sur l'électricite (1760); L'Art des expériences (3 q., 1770, 1784, 1787). NVK

[71] John Theophilus Desaguliers (Jean Théophile Desaguliers, 1683-1744): mục sư Anh giáo, triết gia tự nhiên tích cực phổ biến tư tưởng của Newton, một trong các nhà sáng lập Hội Tam Điểm người Anh gốc Pháp. Tác phẩm khoa học: A Course of Experimental Philosophy (2 q., 1734-1744); A Dissertation Concerning Electricity (1742).

[72] Đừng nhầm lẫn với Francis Bacon, tác giả của Novum Organum, người sau ông đến ba thế kỷ. RB. Roger Bacon (1214-1294): tu sĩ Dòng Francesco, triết gia, nhà giả kim, nhà khoa học Anh; tất cả tác phẩm của ông đều viết bằng tiếng La-tinh. NVK.

[73] Xem: Pierre Brunet, La Science dans l’Antiquité et le Moyen Age, trg: Histoire de la science (Paris, Gallimard, 1957, tr. 350). RB. Pierre Brunet (1893-1950): sử gia khoa học người Pháp. Tác phẩm: Le rêve: Psychologie et physiologie (1924) ; Les physiciens hollandais et la méthode expérimentale en France au XVIIIe siècle (1926); Maupertuis (2 q., 1929);  L 'introduction des théories de Newton en France au XVIIIe siècle (1931); Histoire des sciences: Antiquité (với Aldo Mieli, 1935); Étude historique sur le principe de la moindre action (1938); La vie et l’œuvre de Clairaut: 1713-1765 (1952). NVK

[74] Giovanni Vailati đã giải thích xuất sắc sự tương thuộc giữa phương pháp giả thuyết-diễn dịch và thực tiễn thí nghiệm trong La méthode déductive comme instrument de recherche (Revue de métaphysique et de morale, 1898, tr. 673-674). RB.  Giovanni Vailati (1863-1909): nhà toán học, triết gia và sử gia  khoa học Ý. Tác phẩm: Opere di Giovanni Vailati (Open Library, Internet Archive). Xem bản dịch trích dẫn quan trọng trong chú thích của RB ở đây trên trang mục này: Giovanni Vailati, Từ Giả-Thuyết Diễn Dịch Đến Thực Tiễn Thí Nghiệm.

[75] Tiếng Pháp «toutes choses égales d’ailleurs», do thành ngữ La-tinh «ceteris paribus sic stantibus», thường được viết tắt là «ceteris paribus», và có nghĩa là chỉ xem xét mỗi lần một thông số, và bỏ ra ngoài những tham số khác của trường hợp, xem như chúng không thay đổi. NVK

[76] Édouard Le Roy (1870-1954): triết gia người Pháp. Tác phẩm: Sur l'intégration des équations de chaleur (1898); Science et philosophie (1899); Dogme et critique (1907); Une philosophie nouvelle: Henri Bergson (1912); La pensée mathématique pure (giáo trình ở College de France 1914-1915 và 1918-1919, xb năm 1960); Qu'est-ce-que la Science? (1926); L'Exigence idéaliste et le fait de l'évolution (1927); Les Origines humaines et l'évolution de l'intelligence (1928), La Pensée intuitive: le problème de Dieu (1929); Essai d'une philosophie première: l'exigence idéaliste et l'exigence morale (skc, 2 q., 1956-1958). NVK

[77] Xem: L. Rougier, La Scolastique et le thomisme (Paris, Gauthier-Villars, 1925, tr. 788-791); và: L. Rougier, Les Paralogismes du rationalisme (Paris, Alcan, 1920, tr. 445-465). RB. Louis Rougier (1889-1982): triết gia người Pháp có nhiều đóng góp quan trọng trong lịch sử và triết lý khoa học. Tác phẩm tiêu biểu: La matérialisation de l'énergie (1919); La philosophie géométrique de Henri Poincaré  (1920); Les paralogismes du rationalisme (1920); En marge de Curie, de Carnot et d'Einstein (1921); La structure des théories déductives (1921); La scolastique et le thomisme (1925); L'origine astronomique de la croyance pythagoricienne en l'immortalité céleste des âmes (1933); Traité de la connaissance (1955); La religion astrale des Pythagoriciens (1959); La métaphysique et le langage (1960); Histoire d'une faillite philosophique: la Scolastique (1966); Astronomie et religion en Occident (1980). NVK

[78] Xem: R. Lenoble, Mersenne ou la naissance du mécanisme (Paris, Vrin, 1943, tr. 84-162).

[79] Xem: Aristotelês, Seconds Analytiques, I, 2

[80] Từ của Léon Brunschvicg. Xem: Les Âges de l’intelligence (Paris, Alcan, 1934, tr. 53-54), với quy chiếu về L. Robin trong tiểu dẫn vào Phédon (tủ sách Budé, tr. LII). RB. Léon Brunschvicg (1869-1944): triết gia khoa học và sử gia triết học Pháp, đồng sáng lập viên của Revue de métaphysique et de morale (với Xavier Léon và Élie Halévy). Tác phẩm tiêu biểu: La modalité du jugement (1897); Introduction à la vie de l'esprit (1900, 2010); L'idéalisme contemporain (tuyển tập, 1905); Les étapes de la philosophie mathématique (1912); Nature et liberté (tuyển tập, 1921); L'expérience humaine et la causalité physique (1922); Le progrès de la conscience dans la philosophie occidentale (1927); De la connaissance de soi (1931); Les âges de l'intelligence (1934); Le rôle du pythagorisme dans l'évolution des idées (1937); La raison et la religion (1939); Héritage des mots. Héritage d'idées (1945); Le philosophe de l'esprit (1950); Écrits philosophiques (3 q., 1949-1958); De la vraie et de la fausse conversion, suivi de la querelle de l'athéisme (1951). NVK

[81] Xem: P.-M. Schuhl, Machinisme et philosophie (Paris, Alcan, 1938, tr. 9). RB. Pierre-Maxime Schuhl (1902-1984): triết gia người Pháp. Tác phẩm chính: Platon et l'art de son temps (1933); Essai sur la formation de la pensée grecque: introduction historique à une étude de la philosophie platonicienne (luận án, 1934); Machinisme et philosophie (1938); Étude sur la fabulation platonicienne (1947); Pour connaître la pensée de Lord Bacon (1949); Le Merveilleux, la pensée et l'action (1952); Études platoniciennes (1960); Le Dominateur et les possibles (1960); Imaginer et réaliser (1963). NVK.

[82] Và tiếp tục nằm ở đấy cho đến giữa thế kỷ XVIII!

[83] Xem: S. F. Mason, Histoire des sciences, bản dịch của Vergnaud (Paris, A. Colin, 1956, tr. 105). RB. Stephen Finney Mason (1923-2007): nhà hóa học và khoa học sử Anh. Tác phẩm: A history of the sciences: main currents of scientific thought (1956); Molecular Optical Activity and the Chiral Discriminations (1982); Chemical Evolution: Origins of the Elements, Molecules and Living Systems (1991). NVK

[84] Xem: B. Palissy, Discours admirables de la nature des eaux et fontaines, 1580. Trg: Oeuvres complètes (nxb Cap, 1844, tr. 137 và 157).

[85]  Xem: B. Palissy, sđd, tr. 132-133.                                        

CHUYÊN TRANG CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU Nguyễn Văn Khoa