-
Thể loại:
Bài dịch
[…] Trong phần sau đây, loại xã hội ma thuật, hay bộ lạc, hay tập thể chủ nghĩa cũng được gọi là xã hội khép, và loại xã hội trong đó mỗi cá nhân phải đương đầu với những quyết định cá biệt là xã hội mở […] Chủ nghĩa toàn trị là …
-
Thể loại:
Bài dịch
[…] Triết gia hiện đại thường là công chức và luôn luôn là nhà văn, và để bù lại cho phần tự do mà hắn có được khi viết lách, thì ngay từ đầu, điều hắn phát biểu đã được đặt trong thế giới hàn lâm, nơi chọn lựa phải sống như thế nào đã mất đi tính mãnh liệt gay go...
-
Thể loại:
Bài dịch
Trong đoạn văn này, rút ra từ quyển Metaphysics của ông (tập XIII, phần 4, Lịch Sử Và Phê Phán Hệ Thống Triết Học Của Platôn) Aristotelês xác định các đóng góp chính của Sôkratês cho triết học và khoa học là những gì...
-
Thể loại:
Bài dịch
Khi Athenai nhường chỗ cho Alexandreia* như trung tâm văn hóa của thời cổ đại, mọi trước tác của Aristotelês đều được tập trung tại thư viện Alexandreia, và được Andronikos* ở đảo Rhodos (Hiệu trưởng của trường Lykeion* từ năm 58 đến năm 47 tCn) xuất bản tại đây...
-
Thể loại:
Bài dịch
Về Ý thể, trước hết chúng ta phải xem xét ngay chính học thuyết này, không phải trong tương quan với bản chất đặc thù của những con số, mà dưới cái hình thức qua đó nó đã được nhận thức bởi các triết gia đầu tiên tin rằng những Ý thể tồn tại...
-
Thể loại:
Bài dịch
Ta thường ghép ý niệm khoa học với ý tưởng về sự khám phá ra những hiện thực, và những hiện thực này là có thể với tới, nhận thức được. Như vậy, phải chăng cảm nhận bằng giác quan, hay nhận thức, là khoa học? Hoặc nếu nó không phải là khoa học, thì ta phải định nghĩa khoa học như thế nào? Đấy là vấn đề Aristotelês đặt ra ở đây (Organon, Derniers Analytiques)...
-
Thể loại:
Bài dịch
Khoa học của Aristotelês không phải là ngoại lệ. Nó dựa trên các nguyên lý siêu hình từng là nền tảng của một thứ vật lý học mà đời sau gọi là vật lý học định tính – thứ vật lý học đã khống chế khoa học suốt từ khi ra đời cho đến thế kỷ XVI-XVII, trước khi bị thay thế hoàn toàn...
-
Thể loại:
Bài dịch
Giả sử rằng lúc đầu tinh thần là một tấm bảng trắng, sạch trơn mọi thứ ký tự, không có bất kỳ ý tưởng nào (tabula rasa): làm thế nào, từ trạng thái ấy, nó tiếp nhận được những ý tưởng? Bằng cách nào mà tinh thần* có được số lượng ý tưởng phi thường mà óc tưởng tượng của con người, luôn luôn hoạt động và vô hạn, thể hiện cho nó, với một sự đa dạng gần như vô tận?...
-
Thể loại:
Bài dịch
Trong sự hình thành khái niệm, tinh thần bắt đầu từ đâu? Nó bắt đầu với giống loại hay với cá thể? Trong trích đoạn dưới đây, phủ nhận cả hai quan điểm triết học...
-
Thể loại:
Bài dịch
Trong trích đoạn dưới đây, Albert Burloud giải thích rằng, trái với một cách lạm dụng thuật từ này gợi ý, «cái tổng quát» không có nghĩa là cái mơ hồ mà là cái xác định.
-
Thể loại:
Bài dịch
«Tôi tư duy, vậy tôi hiện hữu» thuộc vào loại phát biểu triết học mà ngay cả những người đứng ngoài cửa Triết cũng đều biết, và vẫn còn là đầu đề tranh cãi sau bao phân tích và tìm hiểu, của bao tác giả...
-
Thể loại:
Bài dịch
Vấn đề đầu tiên tới trực tiếp từ sự suy tưởng về các nguyên nhân thực hiệu. Tôi tồn tại, sự tồn tại này đến từ đâu? Có một vũ trụ; nó từ đâu tới? Có hữu thể, nó đến từ đâu? Cuối cùng, vì sao mà có một cái gì đó thay vì không có chi hết? Vì sao mà cái gì đó lại là cái này chứ không phải là cái chi khác? Một vấn đề gây hoảng sợ...
-
Thể loại:
Bài dịch
Mặc dù máy in được Johannes Gutenberg [người gọi Ả Rập gọi là Aywan Kutanbark] phát minh từ năm 1440 tại Mainz, nó chỉ được phổ biến trên Đế Chế của Uthman[1] (Osman, Ottoman) từ khoảng 1727. Đây là một sự chậm trễ (khoảng 3 thế kỷ!) đã làm tốn khá nhiều giấy mực, nhưng giới sử gia không đạt được đồng thuận về nguyên nhân của hiện tượng. Có chăng một đạo luật ngăn cấm việc sử dụng và phổ biến máy in, nghề in trên lãnh thổ này?
-
Thể loại:
Bài dịch
Trích đoạn dưới đây là từ mục «Triết Gia» trong bộ Bách Khoa Toàn Thư* của Pháp. Nếu đây là một trong những từ mục nổi tiếng nhất của bộ sách, bởi nó đánh dấu bước ngoặt từ quan điểm Cổ đại và Trung đại sang quan niệm của Thế kỷ Ánh Sáng ở Pháp về triết học, tác giả của bài — César Chesneau Dumarsais (1676-1756) — chỉ được biết tới chủ yếu như nhà ngữ pháp học...