Vài nguyên tắc về việc đặt "Danh từ Khoa học"
 (Lời dẫn của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho cuốn "Danh từ Khoa học" xuất bản năm 1942)

Chương 1. Tính cách một danh từ khoa học.

Phàm đặt một danh từ khoa học, phải theo những điều kiện sau này :

1 Mỗi một ý phải có một danh từ để gọi.

2 Danh từ ấy phải riêng về ý ấy.

3 Một ý đừng có nhiều danh từ.

4 Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý.

5 Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc.

6 Danh từ phải gọn.

7 Danh từ phải có âm hưởng Việt âm.

8 Danh từ phải đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính cách quốc gia.

Đó là những điều kiện để làm phương châm cho ta trong khi đặt một danh từ. Năm điều trên thuộc về nội dung và ba điều dưới thuộc về hình thức. Nhưng không phải lúc nào ta cũng có thể làm đủ tất cả những điều kiện ấy. Sau này tôi bàn từng điều kiện một và dẫn thí dụ để làm chứng.

l. Mục đích ta là làm sao cho mỗi ý về khoa học có một danh từ để gọi, như là mỗi người trong một họ, một nước phải có một tên.

Lẽ tất nhiên là lúc ta đặt tên cho hàng ức hàng vạn ý, thế nào ta cũng còn bỏ sót. Và có những ý dần dần sẽ phát minh. Vậy, không những ta phải dặt những danh từ xét bây giờ, và ta lại dự bị để dặt những danh từ còn thiếu.

Vì thế cho nên ta không thể dùng chữ độc âm mà đặt nên toàn thể danh từ khoa học được. Phần lớn ta phải dụng chữ đôi, chữ ba thì mới mong đủ chữ dùng.

2, 3. Trong thường ngữ, hay có tiếng đồng âm dị nghĩa, hoặc trái lại đồng nghĩa dị âm. Về khoa học ta nên tránh những loại ấy.

Sau nầy tôi lấy ý khoa học bằng tiếng Pháp. Tiếng khoa học Pháp đặt ra lần lần nên còn có một vài sự bất tiện như vậy. Ví dụ, tiếng atome chỉ phần chất bé nhất mà cũng chỉ một trọng lượng của nguyên-tố sánh cùng một trọng lượng o-xy bằng 16 gam hay bằng một phân số hoặc một bội số của 16 gam. Hai ý ấy ta nên đặt hai danh từ khác nhau. Nghĩa đầu ta gọi nguyên tử và nghĩa sau đại nguyên tử: Ví dụ thứ hai ; hai tiếng chlorure, chlorhydrale đồng một nghĩa ; tiếng thứ hai, là do sự lạm dụng luật danh pháp hóa học. Ta nên dặt bằng một tiếng mà thôi : cơ-lo-rua.

Thí dụ như vậy rất nhiều. Mỗi lúc ta gặp một chữ Pháp ta phải suy nghĩ xem chữ ấy có nhiều nghĩa không. Nếu có ta nên đặt mỗi tiếng cho mỗi ý. [1]

Cóđôi lúc một tiếng Pháp có nhiều ý xa nhau, không thì hiểu lầm nhau, nếu dùng một danh từ Việt nam thì cũng chẳng ngại chi. Nhất là khi nào đặt danh từ riêng rẽ không lợi thì lại càng nên làm như vậy. Ví dụ, tiếng point có thể là chỗ hai đường gặp nhau mà cũng có thể là chừng. Ta dùng một âm là điểm để chỉ hai ý ấy : điểm uốn là point d'in- flexion, và băng điểm là point de congélation.

Lúc ta gặp một tiếng Pháp, ta lại phải suy xét nó có đồng nghĩa với chữ nào nữa không. Nếu có thì ta không nên đặt chữ mới nữa.

Nhưng cũng có lúc vì tập quán nên đã có những tiếng thông dụng. Vì những lẽ thuộc về khoa học mà ta nên đặt chữ mới. Ta cũng nên giữ cả danh từ cũ cho tiện sự dùng ngoài phạm vi khoa học. Tiếng Pháp có nhiều tiếng như vậy. Bên cạnh chữ sel de cuisine có chữ chlorure de sodium. Ta cũng giữ chữ muối bên cạnh chữ cơ-lo-rua nat-ri. Ý hydrogène sau này tôi sẽ đặt hydro vì một lý khoa học như tôi sẽ có dịp giảng tới, nhưng lẽ tất nhiên là ta cứ phải để tiếng khinh khi mà ta đã mượn của Trung hoa cách đây vài mươi năm [2]. Lại có lúc, một ý mà xét về phương diện khác nhau, nên ở Pháp đã đặt những tiếng khác nhau.

Ta cũng nên đặt phân biệt tiếng. Ví dụ carbures aromatiques và carbures cycliques cũng là một loại, chữ trên đặt vì tính chất lý học chữ dưới đặt vì tính chất hóa học. Ta cũng nên đặt hai tiếng : cac-bua thơm và cac bua vòng.

4 - Tuy là nói đặt danh từ, nhưng không phải muốn đặt âm nào thì đặt. Sốâm có hạn, vậy không có thể dùng toàn âm mới được. Vả nếu có dùng được thì không lẽ gì mà dùng âm một cách không có căn- cứ. Khi nào một ý khoa học thực hoàn toàn không có gì liên lạc với những ý thông thường thì sự chọn âm không quan ngại cho lắm. Nhưng thực ra, đại đa số ý khoa học có gốc ở sự kiến thức thường. Vậy nên ta phải chọn chữ thế nào đó cho dễ nhớ ý. Ví dụ : ý géométrie sẽ đặt là hình học, tiếng hình dùng để nhắc đại ý chữ géométrie.

Những chữ dùng làm gốc phần nhiều phải có kèm theo những chữ khác. Chớ những độc âm phần nhiều đã có nghĩa rõ ràng sẵn rồi. Nghĩa khoa học khi nào cũng chính xác hơn nghĩa thường, nên không thể cho nó lẫn lộn được. Những chữ như số, hơi ta dùng đã quen, nay ta dụng vào khoa học đã đành. Nhưng những tiếng như tụ, tán có nghĩa converger, diffuser lại không thể dùng để chỉ hai ý ấy về khoa học được. Là bởi vì chữ đầu cũng có ý accumuler và chữ sau có ý disperser. Vì thế ta chỉ nên lấy nó làm gốc mà phụ thêm vào một vài chữ khác đề phân biệt. Ta đặt converger là qui tụ, và diffuser là khuếch tán.

Trái lại, không phải dùng một hai âm mà đựng đủ cả các ý trong một danh từ. Danh-từ chỉ là một tên gọi. Còn muốn hiểu rõ nghĩa thì phải học khoa học hoặc tra tự điển và sách giáo khoa. Ở tiếng nước nào cũng vậy, người chưa học một ý gì thì có giỏi mười mươi cũng không thể thay chữ mà đoán nghĩa được. Ví dụ, người chưa học khoa giải tích thì tuy biết chữ primitive có hàm ý đầu, trước, nguyên chớ chẳng biết nó là gì. Nay ta đặt là nguyên hàm. Người có giỏi tiếng Việt mà chưa học định nghĩa của chữ ấy thì cũng không hiểu.

Chọn gốc chỉ để cho những người đã hiểu ý rồi có thể sau nhớ danh từ cho dễ. Nguyên hàm là một hàm số nguyên nó có một hàm số khác làm đạo hàm. Vậy ý chính là nguyên: và ý phụ là hàm. Đặt như thế thì người học chữ mới dễ nhớ.

Một thí dụ nữa. Người không học tinh tường đại số thì không hiểu nghĩa chữ solution d'une équation. Có người hiểu bập bẽ thì tưởng nó là racine và đặt ngay là rễ của phương trình. Nhưng, trước là solution có khi không phải là racine, sau nữa người học khoa học bằng tiếng Việt- nam không hiểu tại đâu mà ý ấy lại dùng tiếng rễ. Chính thực ra thì solution d'une équation là một số mà lúc thay nó vào số chưa biết của Phương trình thì phương trình nghiệm ra thành đúng lẽ. Vì thế mà ta đặt cả hai ý solution và racine bằng nghiệm số thì dễ nhớ hơn.

5 - Một điều rất quan trọng là những danh-từ trong một ngành là của mọi ngành phải có liên lạc với nhau . Lúc đặt một chữ, phải nghĩ đến cả toàn thể khoa học, xem có gì lân cận với ý ta còn xét. Rồi so đọ các ý ấy mà chọn tiếng và để dành cho mỗi một ý một tên.

Ví dụ gặp chữ réflexion mà chỉ biết nghĩa là " sự ánh sáng gặp vật gì trơn láng mà chiếu trở lại " thì đặt ngay là phản chiếu. Đến khi gặp réflexion ở âm học và cơ học thì phản chiếu lại không hợp nữa. Vậy ta nên đặt là phản xạ và để dành phản chiếu cho réflexion de la lumière và réflecteur.

Ví dụ thứ hai ý dispersion de la lumière dùng chữ tán quang kể đã là hay. Nhưng ta xét những hiện tượng lân cận ta sẽ thấy có diffusion de la lumière cũng có thể đặt là tán quang được. Ta nên dành tiếng ấy cho hiện tượng thứ hai, và gọi dispersion de la lumière là tán sắc. Vi dụ thứ ba, tôi lấy ở hóa học. ý hydrogène, xưa Trung hoa dịch là khinh khí. Mình bây giờ có nên dùng danh từ ấy về khoa học không ? Theo phương pháp đặt chữ hóa học mà tôi sẽ giải sau này, tôi sẽ dùng lối phiên âm. Nhưng cũng không phải phiên hết các âm trong tiếng Pháp. Trong khi đặt chữ nầy thì ta phải nghĩ tới các tên nguyên tố khác như oxygène, glycinium, strontium, vân vân. Lại còn phải nghĩ đến những chất từ hydrogène mà sinh ra, như loại hydrure, hydrate, hydro- xyde, . . hydrique, hydroxylamine, vân vân. Xét như vậy thì mới thấy rằng hyt-rô là phải hơn cả, vì với hyt-rô mà biến thành những chất hyt-rua, hyt-rat, hyt-roc-xyt, hyt-ric, hyt-roc-xy-la-min . . . Ta nên bỏ chữ đuôi đi vì chữ quốc tế là hydrogenium dài quá và vô ích cho Việt- âm. Dùng tiếng hyt-rô là tiện cho khoa học, chớ người thường muốn dùng khinh khí như Trung-hoa ngày trước, hay lại muốn bắt chước dùng tiếng khinh như Trung hoa ngày nay thì cũng tùy ý. Sự ấy không có quan hệ cho khoa học.

Trên đây là ba thí dụ trong hàng nghìn thí dụ mà tôi đã gặp trong lúc kiếm danh từ. Chính đó là sự khó khăn nhất trong công việc đặt danh từ khoa học.

Ta cốt làm sao cho toàn thể khoa học có danh từ liên lạc và có tính cách duy nhất và tổng quát. Vì lẽ ấy, cho nên hễ ta cần tới chữ nảo đặt chữ nấy thì ắt là không hay. Vẫn biết người Âu-châu đã đặt như vậy.

Nhưng mỗi lúc, họ chỉ cần đặt chữ để gọi một vài ý mới, và trong lúc đó thì các ý cũ đã có danh từ cả rồi. Còn chúng ta nay phải giải quyết một vấn đề khác hẳn : có hàng vạn ý mới tới trong óc ta. Ta trong một lúc phải tìm tên cho hàng vạn ý ấy. Vì thế mà những điều kiện kể trên đã rất là tối khẩn.

Trên đây là những tính cách mà một danh-từ khoa học cán có về phương diện nội dung. Sau nầy, tôi sẽ bàn đến hình thức của một danh từ thế nào thì có thể gọi là phải lẽ.

Danh từ nên đặt gọn. Một ý mà biểu diễn bằng một xâu âm dài thì không hợp với tai người nước ta.

Ví như chữ hydrodynamique nghĩa là khoa học về nước chảy và nói rộng ra thì khoa học những sự chuyển động của các chất lỏng. Ta có thể gọi gọn là thủy-động-học.

Đó là những ý đơn. Nhưng khoa-học phần lớn là ý kép. Như vậy ta phải ghép những tên gọi ý đơn lại mà đặt nên. Nếu ý đơn mà danh-từ không gọn thì ý kép danh-từ dài biết chừng nào. Ví-dụ ý équation có thể gọi là phương-trình-thức. Nhưng nó đi với rất nhiều ý khác mà thành những ý mới, như équation linéaire, équation différentielle, équation aux dérivées partielles, vân vân... Ta nên rút ngắn danh-từ đặt trên lại, thành phương-trình, để chắp nó với chữ khác mà thành phương-trình bậc nhất, phương-trình vi-phân, phương-trình có đạo-hàm riêng. Hình như với lý- luận ấy, ta còn rút ngắn nó lại một bực nữa cho thành phương hay là trình chẳng hạn. Nhưng đây sợ có sự lầm với âm khác nên ta không nên rút ngắn nữa.

Cách rút ngắn ấy ta có thể dùng trong các ý kép. Ví dụ aberration đặt là thu-sai chớ không đặt là sai được, vì sợ nó lẫn với ý erreur. Nhưng lúc aberration đi với ý khác, như aberration de sphéricité, aberration de la lumière, aberration chromatique, vân vân... thì ta mới có thể dùng chữ sai một mình chắp với các chữ khác và không sợ lẫn như trên kia.

Ta đặt thành : cầu-sai, quang-sai, sắc-sai. Phép nầy rất tiện vì nó giúp ta thu gọn được tên của hai ý đơn mà thành tên gọn cho ý kép. Xem như : cầu sai là thu-sai về mặt cầu, quang-sai là thu-sai của ánh sáng tự các sao đến quả đất thì biết cách đặt trên lợi biết bao nhiêu.

Phép ấy, xưa nay vẫn dùng trong tiếng ta : Cách vật trí tri thành cách-trí, danh-tiếng, và giá-trị thành danh-giá.

Phép bớt chữ trên nầy dùng để đặt danh-từ theo văn-phạm chữ nho rất dễ, chớ theo văn-phạm Việt-âm lại khó.

7. Danh-từ khoa-học bằng tíếng Việt-nam lẽ tất nhiên là phải có âm hưởng Việt-âm. Trừ ra những tiếng chỉ những nghĩa thực là chuyên-môn thì không kể, còn những ý có dính đáng với những điều thường- thức thì ắt phải làm sao cho danh-từ có thể dùng lẫn vào trong câu nói thường mà không chối tai. Sự chối tai đây là thuộc về âm-điệu chớ không phải về nghĩa. Ví dụ trong hai liếng cô-nic xi-pi-ra-/o thì tiếng trên có âm-điệu ta còn tiếng dưới không.

Một câu nói tiếng ta là một đoạn nhạc. Vì thế mà có câu cũng đủ ý nghĩa mà nghe ra cụt cằn nên không thành câu. Nguyên-nhân phần nhiều vì những độc-âm đứng vào địa-vị quan-trọng trong câu, nhất là ở cuối câu cũng vì lẽ ấy, mà tiếng ta đã đặt ra rất nhiều tiếng đôi gồm có hai âm mà chỉ có một âm có nghĩa và âm kia không thêm một ý, một biến-ý nào cả, ví-dụ cơ-hội, tùy-theo. Vì lẽ ấy mà ta đã từng chắp một âm ta với một chữ nho, mà hai chữ cũng đồng một nghĩa (phần nhiều chữ nho đứng trước) như là những tiếng tùy theo, thờ phụng, danh tiếng, thì giờ...

Ngoài lẽ về âm-hưởng, cách đặt chữ kép lại còn cho ta chú ý đến chữ ấy trong một câu và dễ hiểu câu. Nếu là độc-âm thì lúc nó thông qua thính-quan một cách mau chóng, nên câu thành tối nghĩa.

8. Lúc đặt danh-từ khoa-học, ta cần quan-tâm đến lịch-sử sự đặt các danh-từ khác trong tiếng Việt. Và cũng phải theo phương-pháp đặt những chữ ấy. Tiếng Âu-châu phần lớn đã lấy gốc ở Hy-lạp, La-tinh. Tiếng Trung-hoa dùng lối tượng-hình, hội-ý và hài-thanh. Còn tiếng ta thì có một phần là có lẽ thổ-âm xưa, một phần bé có liên-lạc vớì tiếng Ấn-độ, Mã-lai, và một phần lớn là ở tiếng Trung-quốc mà ra.

Tiếng Trung-quốc ta đã mượn bằng nhiều cách, một cách bằng văn-sách, một cách trực tiếp. Cách đầu làm cho ta có không biết bao nhiêu những tiếng để chỉ những ý chuyên-môn hay trừu-tượng, như địa-cầu, thiên-văn. Cách thứ hai cho ta những tiếng thường mà bây giờ, nếu ta không để ý, thì không biết gốc nó nữa, ví-dụ như sắt (thiết ~ Trung-hoa đọc sết), xưa (s ~ : tsou), xem xét (chiêm sát ~ ~ tchem tset).

Hạng chữ đầu ta đọc theo âm khác của tiếng-nói của Trung-quốc, còn hạng thứ hai phần nhiều, ta đọc theo tiếng nói của họ. Không những người ta bây giờ đã quên gốc những chữ như vậy, còn biết bao nhiêu chữ ta dùng hằng ngày chính là chữ nho mà người không học chữ nho không nhận thấy nữa, ví dụ như áo quần, sao chép, thảng thốt, xa xỉ, thung dung vân vân...

Nói tóm lại, chữ ta một phần lớn là mượn ở chữ Trung-quốc mà ra. Chữ đơn còn do-khả, chớ chữ kép thì cực-kỳ là nhiều. Phần chữ nho trong tiếng ta nhiều đến nỗi, trong một áng văn-chương tiêu biểu quốc- âm là quyển Kiều, mà không có mấy câu có thể gọi là hoàn toàn bằng tiếng nôm được. Người ta thường nói chỉ có vài câu như :

Nầy chồng, nầy mẹ, nầy cha,
Nầy là em ruột, nầy là em dâu.

Thế cũng còn nhờ trong câu này có tới năm chữ trùng-điệp và những chữ kia là chỉ những người trong một họ. Chớ ý không có gì cao hay khó gì hết.

Trong thời cận-đại, văn-hóa Âu-châu tràn vào, ta lại có nhịp mượn âm của tiếng Pháp. Ta mượn âm Pháp để chỉ những vật mới như bơ (beurre), phó-mát (fromage), ô-tô (auto), bu-long (boulon).

Cách dùng chữ nho thì hoặc là ta theo văn-phạm chữ nho, hay là ta chỉ mượn âm và nghĩa mà thôi, rồi ta dùng nó theo văn-phạm ta.

Cách đầu cho ta những chữ như động-vật, thiên-tạo ; cách sau cho ta những chữ như loài hổ, phương đông. Có nhiều lúc ta dùng âm nho theo lối chữ nho mà thực ra ngtrời Trung-quốc không dùng như thế, ví dụ tiếng du-thủ du-thực chữ gốc Tàu mà chính Tàu không có.

Cách dùng tiếng Pháp thì ta bỏ bớt vần, mà chỉ giữ nhưng vần quan-hệ, hoặc là ta đổi âm lạ ra âm quen. Vì cách ấy mà "fromage" đã thành phó-mát. Còn lúc nào chữ Pháp vừa ngắn và dễ đọc thì ta lấy các âm nguyên-vận. Ví dụ tiếng ô-tô (auto). Đến lúc chữ mượn đã nhập tịch rồi thì ta dùng nó theo mẹo luật ta. Tiếng phố thì ghép thành phố nam, phố khách ; ô-tô thì thành ô-tô thiết-giáp, ô-tô hòm.

Xem như vậy, tiếng Việt-nam có một phần lớn danh-từ chung với Trung-hoa. Thế mà vì sao nó vẫn giữ được tính-chất đặc-biệt Việt-âm. Có phải vì âm ta khác âm Trung hoa chăng? Đó là một lẽ, nhưng lẽ ấy không đủ. Xem như Trung-hoa có biết bao nhiêu cách đọc khác nhau : Bắc-kinh, Quảng-đông, Thượng-hải, Triều-châu đều nói khác nhau.

Nhưng tiếng các xứ ấy, về phương-diện ngữ-học không có thể cho là khác nhau được, còn tiếng Việt-nam thì riêng ra loại khác. Đó là nhờ cách ghép hai ý có liên-lạc chỉ-định với nhau. Trong tiếng Việt-nam hễ lúc nào có hai ý mà một ý trong ấy chỉ-định ý kia thì phần bị chỉ-dịnh đứng trước phần chỉ-định.

Tiếng nhà ông gồm có hai ý : nhà và ông: Nhà là nói trống. Có tiếng ông sau thì ý nhà trên mới định. Tiếng ngày trước cũng gồm có hai ý. Ngày nào ? ngày trước.

Lại xem câu : nếu trời mưa, tôi ở nhà. Ý tôi ở nhà là một ý đã chọn rồi, chớ ý nếu trời mưa thì còn lơ lửng ; nó cần có ý khác chỉ-định cho nó. Vậy cho nên ta đặt câu nếu trời mưa lên trên câu tôi ở nhà.

Tính-chất vừa kể trên rất là quan-hệ. Chính nó làm cho câu ta viết thành câu Việt-âm hay không. Ví dụ những câu : tôi tới ông nhà, và sách ở bàn trong, nó khác nghĩa hẳn với tôi tới nhà ông và sách ở trong bàn. Còn lúc có hai câu thì cũng có đôi khi đổi vị trí được.

Nhờ ở đặc-tính ấy, hợp với âm-hưởng rất giàu, mà tiếng ta đã được tồn-tại bên cạnh một tiếng rất mạnh là tiếng Trung-quốc.

Nay ta phải noi theo gương trước đó, châm-chước mà dùng trong khi muốn đặt một chữ mới. Nhưng ta chớ tưởng, như nhiều người xét vấn-đề nầy, rằng muốn có một danh-từ Việt-nam thì phải chỉ dùng những tiếng toàn nôm đâu.

Trên đây là điều-kiện chung cho tất cả danh-từ chuyên-môn của Việt-ngữ, chớ cũng không phải riêng gì cho khoa-học. Người nước ta cũng đã theo đó mà đặt những chữ về triết-học về luật-học.

Nếu người nước ta đã chịu theo học khoa-học của Âu-châu như những dân-tộc Viễn-đông khác thì chầc ngày nay cũng đã có danh-từ theo những điều kiện ấy mà tuần tự đã đặt ra, như danh từ triết lý và luật học của ta hay là như danh từ khoa học của các nước láng giềng.

Trái lại, ngày nay, chúng ta mới thấy sự thiếu thốn cấp bách về danh từ khoa học. Ta không thể đợi sự cần dùng tuần tự mà gây nên danh từ. Và thốt nhiên có hàng ngàn, hàng vạn ý khoa học tới trong óc ta. Nếu ta không can thiệp vào trong sự kiến thiết ấy thì không tài nào tránh khỏi nhưng sự sai làm, lẫn lộn.

Nói thế không phải rằng ta đặt một chữ nào cũng phải theo cho đủ các điều kiện trên kia. Những điều kiện trên có khi nó thành ra mâu thuẫn, nên trong sự định đoạt, ta lại xem cách nào tiện hơn mà chọn.

Vì vậy không có thể đặt một tập danh từ theo một qui tắc nhất định, chặt chẽ. Đó cũng là một sự dĩ nhiên, vì tiếng nói là một sinhvật, có xác có hồn. Ta không thể sửa chữa nó, thêm bớt nó một cách chỉ theo lý tưởng.

Tiếng hiện thời của các nước đều là đầy những sự vô lý, nhưng đố ai cải cách nó được. Tiếng vạn quốc ngữ esperanto và ido mà người ta đã đặt ra rất hợp lẽ, nhưng vì không có tính cách một dân tộc nào, nên chung qui, không có một dân tộc nào theo cả [3].

Nói tóm lại, một danh từ khoa học cốt có những đức tính sau nầy : đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn. Chớ cách đặt thì không duy nhất được. Thế cũng không ngại gì, quí hồ tiếng đặt có âm hưởng Việt nam và có tính cách Việt nam là được.

Chỉ có một hạng ý rất chuyên môn, và có tính cách riêng rẽ như ý hóa học thì chỉ có thể làm đủ năm điều kiện đầu về nội dung, chớ ba điều kiện sau về hình thức thì nếu ta không muốn gây nhiều điều bất tiện và khó khăn khác, ta không nên câu nệ quá.


Chương II. Phương sách đặt danh từ

Phương sách đặt danh từ khoa học đều là những phương sách người ta thường dùng mỗi lúc muốn nói tới một vấn đề chưa sẵn chữ. Những phương sách ấy gồm có :

  • Phương sách dùng tiếng thông thường.
  • Phương sách phiên âm.
  • Phương sách lấy gốc chữ nho.

Tôi sẽ xét từng phương sách một, xem sự lợi, bất lợi của nó ra sao, và cách ứng dụng nó nên thế nào [4].

 

PHƯƠNG SÁCH DÙNG TIẾNG THÔNG THƯỜNG.

Ta có sẵn một ít tiếng thông thường có tính cách chuyên môn hay là khoa học thường thức ; ví như cái kính, chất hơi, phép cộng. Những tiếng ấy rất là quí. Nó không phải là tiếng nôm cả đâu như nhiều người tưởng lầm.

Ta sẽ gọi nó là tiếng thông thường.

Tiếng thông thường gồm có một ít tiếng nôm, còn phần nhiều chữ nho dùng lâu đã quen. Ta phải lấy nó làm căn bản cho cách đặt danh từ khoa học.

Phương sách nầy rất hợp với những điều kiện thứ bốn, thứ bảy và thứ tám, nghĩa là danh từ đặt ra có gốc dễ nhớ, có âm điệu Việt nam và có tính cách quốc gia.

Nhưng hạng tiếng khoa học thông thường rất ít, vậy không thể có đủ dùng được. Vả lại ý khoa học của người ta còn rất lu mờ. Nhiều ý khác nhau, hoặc lân cận nhau mà nói chỉ bằng một tiếng. Ví dụ, tiếng chảy dùng để chỉ sự chất nước đổi chỗ trong câu nước chảy. Nó cũng có nghĩa là chất đặc hóa ra nước như trong câu sắt chảy. Nó còn có nghĩa nói vật gì có chỗ hở để nước chảy ra, như trong câu thùng chảy. Nếu ta dùng tiếng chảy để chỉ ý fusion thì không được.

Chữ đơn ít, nhưng kép ta có thể đặt ra nhiều. Khốn nỗi ghép nhiều chữ thông thường lại, thì thành ra một câu chớ không thành ra một danh từ nữa. Chữ kép ấy lúc đứng một mình, còn do khả ; chớ lúc ghép vào các ý khác thì rất là dài và sẽ mất hết tính cách một danh từ. Ví dụ ý pesanteur dùng tiếng thông thường thì ta có thể nói là sức hút của quả đất ; đó là câu định nghĩa của ý chớ không phải là tên gọi nó. Nhưng lúc ý ấy đứng một mình thì tên có dài như vậy cũng chẳng hề chi. Khi nó chắp vào trong một câu như : L'accélération de la pesanteur sur la lune est plus faible que l'accélération de la pesanteur sur la terre, dịch ra Độ gia tốc của sức hút của quả đất trên mặt trăng là hèn hơn sức hút của quả đất trên quả đất, thì không những câu rườm rà mà lại còn sai nghĩa.

Sai nghĩa, bởi vì pesanteur không phải là sức hút của quả đất mà thôi, mà còn là sức hút của một vì tinh tú nào đó nữa.

Thí dụ trên lại tỏ ra một điều bất tiện thứ hai nữa. Tiếng thông thường ghép lại tuy thành một tiếng mới, nhưng nó vẫn giữ hoàn toàn ý riêng của mỗi phần, cho nên nó hay làm lầm lẫn nghĩa.

Nói tóm lại, phương sách dùng tiếng thông thường hợp với điều kiện thứ bốn, bảy, tám, nhưng không hợp với các điều kiện khác.

Phương pháp ấy nên khi nào dùng được thì dùng, chớ nó không thông dụng được.

 

PHƯƠNG SÁCH PHIÊN ÂM.

Phương sách nầy dùng danh từ của Âu châu. Chúng ta hấp thụ khoa học bởi Âu châu, nhưng lấy chữ Âu châu làm danh từ khoa học cũng có nhiều điều rất tiện. Vả phần lớn danh từ khoa học của họ lấy gốc ở Hi lạp và La tinh, cho nên danh từ các nước hay tương tự và có tính cách quốc tế. Dùng nó chẳng phải lẽ lắm ru ?

Ta sẽ chọn tiếng khoa học một nước có khoa học thịnh vượng, có đủ chữ dùng rồi ; rồi ta cứ việc phiên âm. Làm như thế thì chẳng tốn công tìm tòi mà chữ nào cũng có sẵn. Trở ngại chăng chỉ có sợ mình cũng phiên âm những chữ của người ta đã đặt một cách sai hoặc dở.

Sự ấy cũng không khó tránh. Như vậy thì phương sách phiên âm đủ các điều kiện thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ năm về nội dung danh từ. Người Nhật đã dùng lối này một cách rất phổ thông. Người nước ta cũng đã đặt một ít tiếng khoa học bằng kiểu ấy. Ngày nay tiếng bu-long, phốt phát đã nhập tịch tiếng ta một cách dễ dàng như tiếng cân, tiếng đạc điền ngày xưa.

Sự lợi của lối nầy, như dã nói trên là cho ta một phương sách duy nhất, chắc chắn, dễ dàng để có một tiếng nói đầy đủ. Vả những âm đặt ra hoàn toàn mới, vậy không sợ làm lầm lẫn ý như những danh từ toàn dùng tiếng thông thường.

Chắc có kẻ nói, thế thì bất nhược học chữ ngoại quốc cho xong.

Nói thế không đúng. Phương pháp này giúp cho ta có danh từ ; chớ đến lúc những danh từ ấy đã đặt thì ta lại dùng nó theo văn phạm ta, như lúc ta dùng những danh từ mượn ở chữ nho.

Khốn một nỗi, tiếng Âu châu phần nhiều âm điệu khác hẳn tiếng ta. Hoặc vì chữ dài quá, hoặc vì âm khó đọc quá, ta không thể phiên âm được. Tiếng phiên âm phần nhiều không có tính cách quốc gia, nên sợ khó nhập tịch tiếng ta đượe. Xem như chữ athlétisme phiên âm ra at-lê-tít-mơ cũng mới lạ như tiếng điền kinh mà chỉ tiếng sau có thể nhận được mà thôi.

Những điều kiện thứ sáu, bảy, tám không trọn được

Lại còn một sự bất-tiện nữa, là tiếng phiên âm gồm toàn những tiếng vô-nghĩa, nên khi ta đọc lên, không có chỗ nào làm cho dễ nhớ nghĩa được. Nếu ít chữ phiên-âm còn do-khả. Chớ nếu nhiều thì dùng bất lợi. Học nó đã khó nhớ, mà người ta chỉ học khoa-học bằng quốc- âm, lúc nghe đọc một câu gồm tiếng đặt như vậy, khó lòng biện nghĩa được ngay. Điều-kiện thứ tư, như thế cũng không trọn được.

Lối phiên-âm nên dùng; nhưng không nên lạm-dụng. Trái lại đối với một ngành khoa-học cực kỳ riêng rẽ như hóa-học mà danh-từ hoàn toàn mới và quốc-tế, ta lại nên dùng phương-sách tiện nầy.

Ta lại còn nên dùng lúc đặt những tên đơn-vị, và những danh-từ đã thành quốc-tế thnộc về khoa-học cao-cấp. Tuy tiếng phiên-âm không gọn gàng, nhưng nó có lợi cho sự giao-tế của người bác-học xứ ta với các xứ ngoài. Lúc mình đã giỏi khoa-học thì đọc sách, đọc báo khoa-học của các nước sẽ dễ nhận được nghĩa.
 
 

PHƯƠNG SÁCH GỐC NHO.

Chữ nho là chữ Trung-hoa mà đọc theo lối ta. Tiếng Trung-hoa là một tiếng rất giàu, rất cổ, và đã có cách cấu-tạo hẳn hoi, nên người Tàu đặt chữ mới một cách không ngượng-nghịu.

Ai cũng biết rằng tính hay ngượng, hay thẹn là tính của một cá-nhân hay một dân-tộc còn non nớt. Người nước ta còn phần nhiều thuộc về hạng nầy. Chớ người Trung-hoa có một đức-tính quý, cũng như phần nhiều các nước ở Tây-phương là phàm vìệc gì làm cũng không quản sự dị-nghị của ai. Vì vậy, họ đã có một danh-từ đầy ỷu, như sau nầy tôi sẽ bàn tới.

Chữ đơn đặt lối mới thì phần nhiều về hóa-bọc hay đơn-vị : (Khinh = hydrogène) và (lý = lieue marine). Chữ kép thì lại đặt rất dễ dàng. Vì thế ta có thể noi theo đó mà dùng gốc chữ nho mà đặt đủ tiếng gọi của các ý khoa-học. (Điều-kiện thứ nhất)

Âm đơn phần lớn là âm quen, có lúc dùng một mình được. Nhưng lúc nó có nhiều nghĩa, thì ta ghép vào chữ kép làm cho nó có nghĩa riêng nên không sợ lầm lẫn. Vậy điều-kiện thứ hai và thứ ba dễ trọn.

Ta lấy vài thí-dụ, ý sphère, mới xét qua, ta tưởng dùng chữ tròn là rất phải, vì "quả cam tròn" là câu thường nói. Nhưng ý cercle cũng nói là tròn. Hai ý khác nhau mà tiếng thông-thường dùng một chữ. Nên về khoa-học ta phải đổi ý sphère ra tiếng cầu. Tuy nó có trùng-âm với cái cầu bắc qua sông chăng nữa, nhưng hai ý xa nhau quá nên không thể hiểu lầm được. Ví dụ thứ hai : Thermomètre nghĩa đen là cái vật-dụng đo nóng lạnh. Nếu ta dùng tiếng đồ đo nóng lạnh thì không những chữ dài lôi thôi mà nó còn làm tưởng lầm ra calorimètre. Vậy ta nên đặt hai tiếng khác nhau để chỉ hai vật ấy. Nhiệt-kế để chỉ thermomètre, nhiệt-lượng-kế để chỉ calorimètre. Vẫn biết rằng, dịch chữ nhiệt-kế ra tiếng ta thì đo nóng. Hai tiếng đo nóng đọc lên vì quen tai quá, nên vẫn giữ nguyên nghĩa của nó ; vì vậy, nó có thể làm nghĩ tới thermomètre hay calorimètre, chớ chữ nhiệt-kế thì không. Xem vậy, dùng gốc chữ nho có thể tránh sự đồng âm dị nghĩa một cách dễ dàng và tiện.

Vì chữ nho, khác hẳn với âm mới, là chính nó đã làm gốc cho rất nhiều tiếng ta. Nhờ vậy mà phần lớn nó làm cho ta dễ nhớ đến nghĩa. Chữ nhiệt-kế trên đây, có gốc nhiệt là nóng mà ai cũng biết và gốc kế như trong kế-toán, hoặc gần như tiếng kể mà ai cũng biết. Vậy nên, tiếng nhiệt-kế đối với người nước ta không học tiếng ngoại-quốc dễ nhớ hơn là téc-mô-mét.

Vì không sợ lầm lẫn, nên ta không cần dùng nhiều âm mà giữ cho minh-bạch, nên chữ đặt theo cách nầy rất gọn-gàng. Một âm, hai âm hoặc ba âm là cùng, có thể chỉ tất cả ý đơn và phần lớn ý kép. Ta lại dùng lối cắt ngắn tiếng để chỉ nghĩa kép, như tôi đã giải trên kia. Nhờ gốc chữ nho mà ta có thể gọi một cách gọn gàng những ý như élimination ở toán-học là khử, như adiabatique ở vật-lý-học là đoạn-nhiệt, như ý cône de frottement ở cơ-học là ma-chùy. Hai điều-kiện thứ bốn và thứ sáu đều trọn.

Tuy gốc Tàu, nhưng tiếng ta ; âm hưởng ta. Một chữ lấy ở hán-tự ra, lúc hiểu nghĩa rồi, thì có thể gọi là hoàn-toàn nhập-tịch ta liền. Ta đừng lo ngại rằng làm như thế thì mất tính-cách tiếng ta đi. Như tôi đã nói nhiều lần rồi, âm dùng là âm ta thì tiếng thành của ta ; sau nữa nếu sợ thế thì sao không bỏ hết những tiếng đã nhập-tịch ta từ trước.

Ngày nay mấy ai để ý tới những tiếng thông thường quen biết, quyển sách, bộ áo quần đều là gốc ở chữ nho mà ra đâu. Tiếng các nước văn- minh ngày nay đều đã tạo-thành bằng cách mượn lẫn nhau cả. Mượn của ai là tùy lịch-sử mà thôi. Họa chăng chỉ có Trung-hoa là có thể tự hào ràng chữ xưa tự mình đặt ra mà nay vẫn thịnh-vượng.

Vả chăng âm tuy mới nhưng không chướng tai như âm ở chữ phiên-âm. Nghĩa mới mà gốc cũ, đó là hai tính-cách rất quí của phương- sách nầy.

Lúc ta mượn gốc Tàu, ta chỉ nên mượn âm, chớ cách đặt vị-trí các bộ-phận trong câu, hay trong danh-từ, nếu không có gì trở ngại, thì ta cứ theo văn-phạm ta. Đó là một cách Việt-hóa tiếng mượn. Ví dụ như ta nói danh từ khoa-học chớ không nói khoa-học danh-từ. Những lẽ tôi kể trên tưởng đáng lẽ không cần giải kỹ. Vì bây giờ hàng ngày người nước ta dùng nó mà đặt những tiếng để gọi những ý rất thông- thường nhưng mới thâu-nhập, như phòng thủ thụ-động, kỹ nghệ thực-hành, chính-thể quân-chủ, vân vân...

Nói tóm lại, phương-sách nầy làm trọn hết tất cả các điều-kiện trên và rất nên dùng một cách phổ-thông.

Tôi tóm tắt những ý trên vào trong bảng sau này.

 

Phương sách thông thường

Phương sách phiên âm

Phương sách gốc nho

1 Đủ tiếng .

không

 

 

2. Mỗi chữ mỗi ý

không

3. Mỗi ý mỗi chữ

không

4. Có gốc dễ nhớ

 

không

 

 

5. Tính-cách liên-lạc
và toàn-thể

không .

6. Gọn gàng

không

không

7. Âm-hưởng ta

không

8. Tính cách quốc gia

không


Xem bảng ấy thì ta nhận thấy :

Phương-sách dùng toàn tiếng thông-thường làm cho ta dễ nhớ danh-từ. Danh-từ đặt ra có âm-hưởng và tính cách Việt-nam. Nhưng nó thiếu nhiều, hay làm lầm lẫn, không gọn gàng và không có tính-cách liên-lạc và toàn-thể. Vậy chỉ nên dùng phương-pháp ấy trong trường-hợp hẹp-hòi mà thôi, như là để chỉ những ý khoa-học thông thường. (Thế mà còn chưa được).

Phương-sách phiên âm dễ dàng, đầy-đủ, nhưng hiềm rằng danh-từ đặt ra khó nhớ, khó đọc, không liên-lạc với Việt-âm. Cho nên chỉ nên dùng trong một phạm vi chật hẹp, như là đối với những ý không có tính-cách tổng-quát nhất là đối với những tên các vật lạ, các chất hóa-học.

Phương sách gốc-nho thì hoàn-toàn mọi lẽ. Lúc nào cần đến thì dùng nó cũng đắc-lực. Nhưng ta cũng không nên lạm-dụng những chữ mới. Khi nào ý đã thông-thường thì ta nên gắng giữ chữ ấy. Hoặc lúc dùng phiên-âm có lợi thì ta cũng đừng dùng lối gốc nho.


Chương III. Gương trước

Sự đặt danh-từ, không phải riêng về một vấn-đề khoa-học mà thôi, mà cũng không riêng gì về nước ta. Khi nào một dân-tộc mới thâu-nhập một ý-tưởng mới gì, đều phải kiếm cách đặt danh-từ mà gọi. Nhưng, đối với các nước mới qui-hướng về khoa-học như các nước ở Á-đông, vấn-đề có hơi khác. Họphải trong một chốc lát mà gây nên hàng vạn danh- từ. Các nước láng-giềng ta đã giải-quyết ra sao ? Trong nước ta, vấn-đề luật-học đã gây nên một nền danh-từ chuyên-môn trong thực-tế. Người nước ta đã giải-quyết bằng cách nào ?

Sau này ta thử xét cách-thức mà người nước ta đặt chữ về phương-diện chính-trị và luật-học và ta xét cách đặt danh-từ khoa-học của hai nước đồng-văn với ta xưa là Trung-hoa và Nhật-bản.

Nước Trung-hoa có tiếng giống tính-cách tiếng ta, nên đó là một gương mà ta có thể soi rất tiện . Tiếng Nhật-bản tuy có tính-cách khác ta về loại thông - thường, nhưng về phương-diện chuyên-môn , tiếng Nhật-bản cũng mượn gốc Hán-tự như tiếng ta. Nên đối với họ, cách đặt chữ có phần giống như đối với tiếng ta. Xét rõ sẽ giúp ích cho ta một phần lớn.

Vả chăng, hai nước ấy nay đã có một nền-tảng khoa-học vững chãi, không những giáo-khoa về mọi đẳng-cấp đều bằng quốc-âm, không những về một vấn-đề khoa-học cao-cấp nào, họ cũng có sách-vở và báo- chí bằng quốc-âm nói tới, các nước ấy lại, nhờ sự phổ-thông khoa- học, mà kỹ-nghệ đã đến thời-kỳ phát-đạt. Đó là một chứng cớ rõ ràng rằng cách đặt danh-từ khoa-học họ có hiệu-nghiệm.

Hai nước ấy đã hiến cho ta hai cuộc thí-nghiệm lớn lao để cho ta suy nghĩ và tìm cách thích-dụng với sự học nước mình.

 

DANH-TỪ NHẬT-BẢN.

Tiếng Nhật cũng như tiếng ta, phần lớn lấy gốc ở Trung-hoa, nhất là những tiếng để chỉ những ý trừu-tượng.

Còn chữ thì cũng phần lớn dùng chữ Trung-hoa, có lúc đọc theo Hán-âm, có lúc đọc theo Đường-âm, có lúc lại đọc lấy nghĩa theo Nhật-âm, có khi chỉ mựợn chữ viết lấy âm mà nghĩa thì chỉ theo âm chớ không theo chữ, như là ta viết chữ nôm ta. Ngoài chữ Hán, Nhật-bản còn có chữ để phiên-âm, theo lối chữ vần Nam-việt.

Vấn-đề danh-từ khoa-học đối v