Tin Tức
Viện IRED cùng các học giả, nhà nghiên cứu và chuyên gia giáo dục tổ chức sự kiện học thuật như tọa đàm, hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục và khoa học xã hội.
1. Bối cảnh
Trong hai thập kỷ qua, hệ thống đại học Việt Nam đã có một bước phát triển vô cùng ngoạn mục về số lượng các trường được thành lập, về số lượng sinh viên, về sự đa dạng hóa các loại hình đào tạo, về các chương trình liên kết hợp tác, về mở rộng các chuyên ngành đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, một điểm rất dễ nhận thấy là sự phát triển quá nhanh về số lượng tất yếu sẽ kéo theo nhiều vấn đề về chất lượng. Trong lúc số lượng sinh viên tăng theo cấp số nhân, thì số lượng giảng viên không thể tăng kịp kéo theo những hệ quả tiêu cực về chất lượng.
Cơ chế thăng tiến không chủ yếu dựa trên tài năng và thu nhập bất hợp lý không khuyến khích giảng viên tập trung vào nghiên cứu và trau dồi chuyên môn. Triết lý giáo dục và nội dung chương trình đào tạo lạc hậu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới khiến sinh viên không được trang bị những kỹ năng cần thiết cho công việc, không đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của thị trường lao động. Chất lượng đào tạo thấp dẫn đến hệ quả bùng nổ làn sóng du học và những chương trình liên kết với nước ngoài như một giải pháp đáp ứng nhu cầu đào tạo chất lượng cao để tham gia thị trường lao động toàn cầu. Tuy nhiên, du học kéo theo vấn đề chảy máu ngoại tệ và chảy máu chất xám, còn giáo dục xuyên biên giới cũng đặt ra nhiều nguy cơ, vì các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục nước ngoài thường là các tổ chức hoạt động vì lợi nhuận sẽ không coi lợi ích cơ bản và lâu dài của quốc gia đối tác là ưu tiên của họ.
Bối cảnh đó đặt ra một nhu cầu bức thiết về việc xây dựng những trường đại học Việt Nam có chất lượng cao theo những chuẩn mực đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Đây là những trường đại học hoa tiêu trước mắt có nhiệm vụ đào tạo những nhà khoa học và quản lý hàng đầu cho đất nước, đồng thời là một khuôn mẫu cho các trường đại học trong nước. Trong trung hạn và dài hạn, những trường đại học này sẽ phải phấn đấu tiến tới vị trí được công nhận trong khu vực và trên thế giới.
Hợp tác quốc tế có một vai trò cốt yếu và không thể thiếu trong tiến trình thành lập những trường đại học được kỳ vọng là đáp ứng những chuẩn mực quốc tế. Bài viết này thảo luận về những khả năng, cơ hội trong việc hợp tác quốc tế nhằm xây dựng những trường đại học đỉnh cao này, và xem xét những “pros and cons” (những lý lẽ phản đối hay biện minh) cho các khả năng hợp tác ấy.
2. Vấn đề hợp tác quốc tế và quốc tế hóa các trường đại học
Trong một bài viết trước đây (Briller, Ly Pham, 2008) [1], chúng tôi đã đề cập đến nhu cầu và xu hướng quốc tế hóa của các trường đại học trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng này chắc chắn sẽ ngày càng mạnh mẽ trong thời đại toàn cầu hóa. Quốc tế hóa đang trở thành vấn đề sống còn của các trường đại học trong cuộc cạnh tranh toàn cầu.
Các trường đại học không chỉ là những đơn vị làm việc cho địa phương hay đất nước mình, mà còn phục vụ cho cả thế giới. Với nhịp điệu thay đổi nhanh chóng trên thế giới thông qua toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới cùng với các dân tộc, các nền văn hóa, các định chế tổ chức trong đó có các trường đại học, đang trở thành những thực thể đan quyện vào nhau, có tương quan với nhau và liên kết với nhau hết sức chặt chẽ. Để chuẩn bị cho sinh viên của chúng ta bước vào một thế giới đang đổi thay nhanh chóng, để tăng cường và thúc đẩy các khám phá khoa học, để thực hiện những nhiệm vụ mà chúng ta đã cam kết, và để duy trì năng lực cạnh tranh của chúng ta, các trường đại học phải có những năng lực mang tính toàn cầu và những mối quan hệ có tính chất quốc tế dưới nhiều hình thức. Các trường đại học cần chuẩn bị cho sinh viên của mình trở thành những thành viên tích cực trong một thế giới mà biên giới quốc gia ngày càng trở thành không còn mấy ý nghĩa. Nhu cầu duy trì năng lực cạnh tranh trên thế giới đòi hỏi các trường đại học tạo ra nguồn nhân lực có năng lực toàn cầu và có khả năng nghiên cứu ở đỉnh cao. Mỗi trường đều có trách nhiệm bảo đảm cho sinh viên của mình được chuẩn bị đầy đủ cho những thử thách của thế kỷ XXI và hiệu quả của việc đó là một phép thử đối với chất lượng đào tạo của các trường.
Có nhiều nguyên nhân cả nội tại và ngoại tại thúc đẩy việc quốc tế hóa các trường đại học. Có những chứng cứ rất mạnh cho thấy các trường đại học được quốc tế hóa hoạt động tốt hơn nhiều trong cả đào tạo lẫn nghiên cứu khoa học. Điều này thường được thể hiện qua việc đào tạo được những sinh viên có kiến thức mang tính chất quốc tế và năng lực mang tính xuyên văn hóa; đạt được những chuẩn mực quốc tế; duy trì năng lực cạnh tranh; đẩy mạnh phát triển tri thức trong những vấn đề về sự tương thuộc giữa các quốc gia; nghiên cứu những vấn đề đang đặt ra cho quốc gia và quốc tế; hoạt động vì tiến bộ xã hội; đánh giá cao sự đa dạng văn hóa và dân tộc của một quốc gia qua đó duy trì ổn định an ninh quốc tế và những quan hệ hòa bình [2].
Nhu cầu quốc tế hóa khiến ngày nay các trường đại học không thể phát triển mà không chú trọng tới hợp tác quốc tế và hoạt động theo những chuẩn mực quốc tế nhằm đạt được sự thừa nhận, đồng thời duy trì khả năng cạnh tranh của mình trong một môi trường toàn cầu.
Hợp tác quốc tế trong việc xây dựng những trường đại học theo chuẩn mực quốc tế
Thế nào là một trường đại học theo chuẩn mực quốc tế?
Trong mấy thập kỷ vừa qua, giới chức chính trị và quản lý giáo dục đại học ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển như bị cuốn vào cơn lốc tham vọng xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế. Sau rất nhiều nỗ lực đầu tư những nguồn lực khổng lồ mà chưa đạt được thành công như mong đợi, người ta bắt đầu nhận ra rằng muốn có những trường đại học đẳng cấp quốc tế thì phải bắt đầu từ những trường được xây dựng theo chuẩn mực quốc tế. Nói đến chuẩn mực không phải là nói đến những con số, mà là nói đến những giá trị được thừa nhận rộng rãi. Những chuẩn mực này biểu hiện trước hết trong quan hệ giữa các thành viên của nhà trường, cũng như quan hệ giữa nhà trường và nhà nước, nhà trường và xã hội. Những chuẩn mực ấy tuy là những giá trị vô hình nhưng có thể đóng vai trò xây dựng và điều chỉnh các mối quan hệ này. Những trường đại học tốt nhất thế giới là những biểu hiện cao nhất của các chuẩn mực ấy. Thành công và thất bại của các nước đang phát triển trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế, như có thể thấy trong trường hợp Ấn Độ, Malaysia và Trung Quốc [3], gắn với việc hướng về hoặc đi ngược lại những chuẩn mực này.
Những chuẩn mực đó có thể trình bày tóm tắt như sau. Về mặt quản trị đại học [4], đó là tự chủ về quản lý (autonomy) gắn với chế độ giải trình trách nhiệm (accountability), sự minh bạch (transparency) và hệ thống kiểm định chất lượng (accreditation system); là đồng quản trị (shared governance), tự chủ về học thuật (academic freedom), cơ chế chọn lọc và thăng tiến dựa trên tài năng (merit-based personel policies). Về nguồn lực con người, thì không còn nghi ngờ gì nữa, một trường đại học được quốc tế công nhận về chất lượng chắc chắn phải có những con người được cộng đồng học thuật quốc tế công nhận về tài năng và phẩm chất. Những con người có tài năng và phẩm chất vượt trội này làm nên uy tín, thanh danh của nhà trường, đồng thời là nguồn lực tối quan trọng đào tạo nên những con người có tài năng và phẩm chất vượt trội khác. Chính họ, những nhà quản lý xuất sắc và những nhà khoa học ưu tú, là nhân tố chủ yếu quyết định thành công của nhà trường. Đội ngũ giảng viên xuất sắc sẽ thu hút những sinh viên xuất sắc đến học. Về cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính, cũng có những chuẩn mực được công nhận. Không có một nguồn tài chính đủ lớn để trang trải cho cơ sở vật chất và các hoạt động nghiên cứu và đào tạo, thì không thể tạo ra được chất lượng. Một trường đại học được xây dựng theo những chuẩn mực quốc tế phải bao gồm cả những chuẩn mực về cơ sở vật chất bao gồm thư viện, phòng thí nghiệm, trang thiết bị nghiên cứu và những phương tiện phục vụ cho hoạt động giảng dạy đào tạo.
Vai trò của hợp tác quốc tế
Như Salmi (2008) [5] đã nêu rõ, ba nhân tố chủ yếu có vai trò quyết định thành công trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế là tập trung tài năng (concentration of talent), tài chính dồi dào (abundant resources), và cơ chế quản trị thuận lợi (favorable governance). Nói rộng hơn, ba nhân tố nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, cơ chế hoạt động này có tương tác lẫn nhau, bù đắp hoặc triệt tiêu lẫn nhau, và là không thể thiếu trong việc quyết định thành công của bất cứ trường đại học nào. Hợp tác quốc tế có thể đóng vai trò như thế nào đối với mỗi nhân tố ấy?
Về nguồn lực tài chính
Việc xây dựng những trường đại học đỉnh cao ở các nước đang phát triển trong mấy thập niên qua chủ yếu dựa vào nguồn lực tài chính của bản thân các nước, hoặc dựa vào vốn vay. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. 400 triệu USD xây dựng 4 trường đại học được kỳ vọng đạt chuẩn quốc tế là khoản vay của Ngân hàng Phát triển Á Châu ADB. Tuy hợp tác giữa các quốc gia về trao đổi văn hóa giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng, song có lẽ không nên mong đợi sự “cho không” nào cả nếu muốn bảo vệ tính chính trực của nền học thuật quốc gia nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của đất nước.
Tuy nhiên, cần có một cái nhìn “động” về vấn đề nguồn lực tài chính. Tuy nguồn vốn ban đầu nhằm xây dựng cơ sở vật chất và tạo lập bộ máy nhân sự là rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là khả năng tạo ra nguồn lực tài chính bảo đảm cho các hoạt động của nhà trường trong trung hạn và dài hạn. Đại học nghiên cứu là thứ rất đắt đỏ và cần được sự hỗ trợ mạnh mẽ của nhà nước nhưng nó cũng được mong đợi là sẽ kiến tạo ra những tri thức khoa học và công nghệ mang lại nguồn tài chính cho nhà trường và cải thiện năng lực cạnh tranh của quốc gia. Đây là nơi hợp tác quốc tế bắt đầu có vai trò quan trọng. Chính hợp tác quốc tế sẽ nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu của nhà trường, và năng lực ấy sẽ mang lại một nguồn tài chính to lớn thông qua các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
Thêm nữa, trong công thức thành công của một trường đại học, gồm ba nhân tố: Nguồn lực con người, Nguồn lực tài chính, Cơ chế quản trị thì các tham tố này không độc lập mà có tương tác lẫn nhau, tức có thể bù đắp hoặc triệt tiêu lẫn nhau. Con số tuyệt đối về nguồn lực tài chính có thể không đổi nhưng hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực tài chính này thì phụ thuộc rất nhiều vào phẩm chất của con người và tính chính đáng (legitimacy) của cơ chế quản trị. Theo nghĩa ấy, thì các quan hệ hợp tác quốc tế nếu tác động tích cực lên nguồn lực con người và cơ chế quản trị thì cũng sẽ tạo ra hiệu quả tích cực của việc sử dụng nguồn lực tài chính.
Về nguồn lực con người
Hẳn nhiên là hợp tác quốc tế có một vai trò rất quan trọng trong việc cung ứng nguồn lực con người cho các trường đại học đỉnh cao này trong bước đầu thành lập. Ở đây bài học Trung Quốc (TQ) có một ý nghĩa rất thú vị. Để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với những trường đại học hàng đầu thế giới, TQ biết rằng con người có một vai trò to lớn và họ đã đầu tư những khoản tiền rất lớn để mua chất xám. Chính sách của họ là tuyển dụng nhân sự trên phạm vi toàn cầu và tăng cường quốc tế hóa: họ không có đủ sức mạnh tài chính để lôi cuốn được những giáo sư đẳng cấp quốc tế với số lượng đủ lớn để đảm bảo cho hoạt động của một trường, thay vào đó, họ có chủ trương rất rõ ràng nhằm thu hút những trí thức Hoa kiều và những người TQ được đào tạo từ các nước phương Tây. Họ đã đạt được những thành công rất đáng kể: trong khoảng từ năm 2000 đến 2005, số lượng công bố khoa học của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu trong danh mục SCI đã tăng gấp đôi. Đại học Thanh Hoa đã có khoảng 2700 bài báo được liệt kê trong danh mục SCI năm 2003, gần bằng con số của các trường hàng đầu thuộc top 50 của thế giới. Số giảng viên có bằng tiến sĩ đã đạt đến 50% ở các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ tính đến năm 2005 và được hy vọng sẽ đạt đến 75% trước năm 2010. Những trường này cam kết nâng cao số giảng viên có bằng tiến sĩ từ các trường ĐHĐCQT. Các nhà quản lý của Đại học Bắc Kinh ước lượng khoảng 40% cán bộ giảng dạy của họ được đào tạo ở nước ngoài, chủ yếu là ở Mỹ.
Có hai điểm đáng chú ý ở đây: Một là, TQ rất chú ý đến việc lôi cuốn những người từ các trường đại học danh tiếng của phương Tây về làm việc cho họ, và phương thức chủ yếu là bằng mức lương hấp dẫn hơn là bằng các quan hệ hợp tác trao đổi học giả. Có lẽ là vì các chương trình trao đổi học giả không thể đáp ứng đủ số lượng các giảng viên được đào tạo ở phương Tây mà người TQ cần để làm thay đổi chất lượng đào tạo và nghiên cứu của họ. Hai là, theo nhận định của các học giả phương Tây và các học giả Trung Quốc, các nhà khoa học phương Tây hoặc được đào tạo ở phương Tây không dễ thích ứng với hệ thống học thuật vốn còn hạn chế về tự do diễn đạt ý tưởng của TQ. Yang, nguyên hiệu trưởng Trường Đại học Phúc Đán, cảnh báo rằng nếu không xây dựng được một bầu không khí đúng đắn, những bộ óc vĩ đại ở nước ngoài có thể sẽ chỉ đến TQ một hay hai năm là tìm đường rút vì không thể thích ứng. Bài học rút ra ở đây là nguồn lực con người dù có xuất sắc đến đâu đi nữa cũng sẽ không phát huy được tác dụng nếu thiếu một cơ chế vận hành hợp lý. Vậy thì, liệu hợp tác quốc tế sẽ có vai trò như thế nào trong việc xây dựng một cơ chế vận hành hợp lý cho trường đại học?
Về cơ chế quản trị
Trong ba nhân tố quyết định thành công của một trường đại học, thì cơ chế quản trị là nhân tố cốt yếu nhất và khó khăn nhất đối với Việt Nam. Cốt yếu nhất vì nó đóng vai trò liên kết nguồn lực con người và nguồn lực tài chính, nó có thể nhân lên hoặc triệt tiêu sức mạnh của cả nguồn lực con người lẫn nguồn lực tài chính. Khó khăn nhất vì nó liên quan đến nền tảng văn hóa, hệ thống chính trị, sự chi phối của các nhóm lợi ích. Vì vậy, hơn bất cứ nơi nào khác, đây là chỗ cần quyết tâm của chính phủ, bởi nếu không thay đổi nhân tố trọng yếu này thì mọi nỗ lực khác đều sẽ không dẫn đến kết quả mong đợi.
Đối với các trường đang hiện hữu, hợp tác quốc tế không trực tiếp tác động lên cơ chế quản trị của các trường, nhưng thông qua trao đổi học giả, giao lưu văn hóa, hợp tác nghiên cứu, có thể tăng cường nhận thức của giới quản lý đại học và giảng viên, tạo ra nhu cầu và điều kiện cho những cải cách có thể thực hiện.
Đối với những trường được thành lập mới, hợp tác quốc tế với những trường đại học nước ngoài đã có uy tín và kinh nghiệm lâu đời có thể giúp xây dựng ngay từ đầu một thiết chế vận hành với cơ chế quản trị, chương trình đào tạo và hệ thống nhân sự nhằm bảo đảm chất lượng và duy trì năng lực cạnh tranh, như đã được thực hiện trong trường hợp Đại học Quốc tế Bremen (Đức): nhà nước Đức đầu tư 300 triệu USD với sự hợp tác toàn diện mọi mặt của Đại học Rice (Hoa Kỳ) trong giai đoạn thành lập để xây dựng Đại học Quốc tế Bremen và chỉ sau 5 năm thành lập trường này đã có tên trên danh sách 500 trường hàng đầu thế giới của cả hai bảng xếp hạng SJTU và THES [6]. Một ví dụ thành công tương tự trong việc hợp tác xây dựng thiết chế vận hành ngay từ đầu là sự hợp tác của Massachussettes Institute of Technology (MIT- Hoa Kỳ) và Viện Khoa học Công nghệ Kanpur của Ấn Độ. Sự hợp tác của MIT trong trường hợp này là do kêu gọi của Tổng thống Kenedy nhằm đáp ứng đề nghị hỗ trợ đào tạo kỹ thuật của Thủ tướng Ấn Nehru năm 1959. Viện Khoa học Công nghệ Kanpur sau này trở thành một trong những trường uy tín nhất của Ấn Độ. Thành công này có được trước hết là nhờ quyết tâm rất cao của nhà nước Ấn, thể hiện qua việc ủng hộ sự chủ động của nhà trường bằng cách đem lại cho họ một phạm vi quyền hạn rất rộng so với những quy định và chính sách đương thời. Hai là nhờ sự hợp tác đã đi đúng hướng: thay vì đem nguyên cả mô hình quản trị và bộ máy nhân sự Hoa Kỳ đặt lên mảnh đất Ấn Độ, chương trình hợp tác này đã đặt trọng tâm vào việc xây dựng năng lực nội tại cho trường đối tác. Họ cùng làm việc một cách gắn bó trong quá trình xây dựng chương trình và tuyển dụng nhân sự. Hai bên đều hiểu rằng đây phải là một trường đại học Ấn Độ chứ không phải một chi nhánh của các trường nước ngoài tại Ấn. Như người sáng lập Viện Khoa học Công nghệ Kanpur đã nói: “Điều phân biệt một trường hàng đầu với những trường khác chính là cái môi trường làm việc của nó. Có những thứ không thể mang vào từ bên ngoài mà phải được xây dựng và duy trì bằng chính nỗ lực và sự tự ý thức của nhà trường” [7].
Các hình thức hợp tác quốc tế
Từ khi có chính sách mở cửa, và đặc biệt trong mấy năm gần đây, các hình thức hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học ở Việt Nam đang ngày càng nở rộ, trong đó có cả những nhân tố tích cực và tiêu cực cần được nhận thức đầy đủ.
Hiện đang có hai xu hướng nhìn nhận về giáo dục đại học: một xu hướng truyền thống xem đại học là hàng hóa công vì phục vụ lợi ích công, do vậy lợi nhuận không phải là mục tiêu. Một xu hướng khác ngày càng rõ nét, là xem giáo dục đại học như một hàng hóa khả mại cần hoạt động theo những luật lệ thương mại như Hiệp định GATS và trong khuôn khổ WTO [8]. Xu hướng thứ hai biểu hiện rất rõ trong hoạt động đào tạo xuyên biên giới.
Vì vậy cần thấy rằng có nhiều hình thức hợp tác quốc tế khác nhau trong đào tạo đại học nhằm phục vụ những mục đích khác nhau. Có thể kể:
Hợp tác quốc tế trong đào tạo đại học nhằm cung ứng dịch vụ giáo dục
Dưới hình thức “du học tại chỗ”, những chương trình liên kết 2+2, 3+1, những khóa đào tạo ngắn hạn với giảng viên người nước ngoài của các trường đại học Việt Nam với các đối tác quốc tế đang mang lại cho người học thêm nhiều cơ hội để học tập những tri thức, kỹ năng mới và một bằng cấp “quốc tế” với chi phí chấp nhận được. Một hình thức khác là 100% chương trình nước ngoài và bằng cấp nước ngoài, dạy tại Việt Nam, với kỳ vọng “chi phí nội, chất lượng ngoại”. Những hình thức hợp tác này, tuy có mang lại ít nhiều lợi ích cho người học, đa dạng hóa cơ hội học tập và giúp họ tiếp cận những tri thức hiện đại, bù đắp lỗ hổng về chất lượng đào tạo của các trường đại học trong nước, nhưng chủ yếu là những hoạt động vì lợi nhuận của các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục và các đối tác của họ. Vì vậy, nội dung đào tạo chỉ là những ngành đang “ăn khách” như quản trị kinh doanh, ngoại ngữ, công nghệ thông tin. Những hình thức này không góp phần cải thiện hoạt động của nhà trường theo những chuẩn mực quốc tế, không giúp phát triển năng lực nội tại của các trường, cũng không đáp ứng nhu cầu phát triển lâu dài của quốc gia. Bởi vì việc phát triển quốc gia không chỉ cần những ngành nghề thời thượng mà cần một lực lượng nghiên cứu các ngành mũi nhọn, cần những trí thức tài năng và có trách nhiệm với xã hội, những thứ không phải là mối quan tâm của các nhà cung ứng dịch vụ giáo dục “mì ăn liền”.
Trao đổi học giả/sinh viên và giao lưu văn hóa, khoa học, hợp tác nghiên cứu
Những hình thức hợp tác quốc tế này đã diễn ra từ lâu trong lịch sử, nhưng với mức độ khác nhau tùy từng thời kỳ. Cần khuyến khích việc tiếp nhận sinh viên nước ngoài đến học theo kiểu “học kỳ mùa hè” và tạo điều kiện cho sinh viên Việt Nam tham gia những hoạt động tương tự, vì đó là cơ hội để thực sự gia tăng hiểu biết về những nền văn hóa khác, thúc đẩy tinh thần chung sống hòa bình giữa các quốc gia. Hợp tác nghiên cứu là cách để chia sẻ và cập nhật tri thức của các nhà khoa học, cũng là cơ hội nâng cao năng lực nghiên cứu và tăng cường sức mạnh nội tại của nhà trường. Các chuyến đi tham quan thực tế dành cho giới quản lý đại học cũng trở thành khá phổ biến trong mấy năm gần đây, nhưng một khi cơ cấu tập quyền chưa thay đổi, thì các nhà quản lý đại học cũng rất khó thực hiện được đổi mới gì đáng kể ở cấp trường.
Hợp tác cấp nhà nước nhằm xây dựng những trường hoàn toàn mới
Hình thức này chưa trở thành phổ biến tuy đã có một trường hợp điển hình là Trường Đại học Việt Đức. Theo một thỏa thuận giữa hai nhà nước, Đại học Việt Đức đã được hình thành trong một thời gian rất ngắn với kỳ vọng trở thành một trong bốn trường đại học Việt Nam “đạt chuẩn quốc tế” trong tương lai. Với quy chế hoạt động cho phép một mức độ tự chủ và cơ chế quản trị thuận lợi, cùng với một nguồn vốn đầu tư ban đầu đáng kể, Việt Đức đã được tạo nhiều điều kiện ưu ái để hoạt động. Đến nay, Đại học Việt Đức đã kết thúc năm học đầu tiên với vài chục sinh viên. Còn một chặng đường dài trước mặt để Việt Đức tạo ra được những thành tích trong nghiên cứu và đào tạo được công nhận trên phạm vi quốc tế, cũng như tạo ra những ảnh hưởng rõ rệt đối với hệ thống học thuật trong nước, nhưng rõ ràng sự hình thành Đại học Việt Đức đã mở ra một hướng hợp tác và cho phép chúng ta nghĩ đến những đại học Việt Mỹ, Việt Pháp, hay Việt Nhật… trong tương lai.
Kết luận
Xây dựng trường đại học Việt Nam theo những chuẩn mực quốc tế để tiến đến có những trường đại học đẳng cấp quốc tế trong tương lai là một chủ trương lớn của nhà nước. Hợp tác quốc tế có một vai trò trọng yếu trong tiến trình này. Tuy vậy, cần thấy rằng không ai có thể thay thế người Việt để giải quyết những vấn đề của người Việt. Kinh nghiệm các nước cho thấy việc xây dựng năng lực nội tại thông qua hợp tác quốc tế là một hướng đi đúng, chứ không phải là sao chép hay nhập khẩu toàn bộ mô hình quản lý và chương trình đào tạo của nước ngoài. Mặc dù sự tham gia của các đối tác nước ngoài là không thể thiếu để nâng cao năng lực nghiên cứu và đào tạo cũng như xây dựng một thiết chế vận hành hợp lý cho một trường đại học theo chuẩn mực quốc tế, chúng ta vẫn cần nhấn mạnh vai trò quyết định của những nỗ lực tự thân của nhà nước, của giới quản lý đại học và giới học giả trong nước. Những nỗ lực này không phải chỉ giới hạn trong vấn đề nguồn lực tài chính, mà quan trọng hơn và cốt yếu hơn, là trong quyết tâm đổi mới cơ chế và chính sách. Việt Nam đang có một quyết tâm rất lớn của chính phủ. Mọi nguồn lực cũng đã sẵn sàng. Tất cả những gì Việt Nam đang cần, là một khởi đầu đúng. Mục tiêu dù có xa, nhưng chỉ cần bước đi đầu tiên đặt đúng đường, thì sẽ có ngày đến đích. Nói như giáo sư Hoàng Tụy, tụt hậu không phải là điều đáng ngại, mà đáng ngại nhất là đi sai hướng.
Tư liệu tham khảo
1. Briller, Ly Pham (2008). “Quốc tế hóa hay không quốc tế hóa? Một bước đi quan trọng cho các trường đại học Việt Nam”. Kỷ yếu Hội thảo GDSS Lần thứ hai năm 2008, TPHCM, Việt Nam.
2. Jamil Salmi (2008). “Những thách thức trong việc xây dựng trường ĐHĐCQT”. Phạm Thị Ly dịch. Bản tin Thông tin Giáo dục Quốc tế số 3-2009.
3. Knight, J. (1997, Spring). “A Shared Vision? Stakeholders’ Perspectives on the Internationalization of Higher Education in Canada”. Journal of Studies in International Education. 1 (1), 27-44.
4. Nguyễn Thiện Nhân, “Phát triển nhanh việc đào tạo nhân lực có kỹ năng: những sáng kiến của Việt Nam”. Báo cáo tại Hội thảo Quốc tế “Toàn cầu hóa trong Giáo dục: Thử thách, cơ hội, và ý nghĩa đối với Việt Nam và các nước trong vùng”, SEAMEO, 14-8-2007.
5. Phạm Thị Ly (2008) “Xây dựng một hệ thống quản trị đại học hiệu quả- Kinh nghiệm của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo Giáo dục Quốc tế và So sánh Lần thứ 53 tại Carolina, Hoa Kỳ, ngày 22-26 tháng 3 năm 2009
6. Phạm Thị Ly (2009)“Ấn Độ, từ bán lẻ tri thức tiến lên ĐHĐCQT”, Niên giám khoa học 2009, Viện Nghiên cứu Giáo dục.
7. Phạm Thị Ly (2009) “Con đường xây dựng ĐHĐCQT của Trung Quốc” Tia Sáng 17-3-2009.
8. The New School (2009). “The Intangible of Excellence: Governance and the Quest to Build a Vietnamese Apex Research University” (In press).
9. Vũ Thị Phương Anh, Phạm Thị Ly (2009). “ĐHĐCQT ở Malaysia: từ khát vọng đến thực tiễn”. Tạp chí Phát triển Khoa học Công nghệ Đại học Quốc gia TPHCM số tháng 7-2009
10. Vietnam Education Fund, Observations on Undergraduate Education in Computer Science, Electrical Engineering, and Physics at Select Universities in Vietnam. A Report Presented to the Vietnam Education Foundation by the Site Visit Teams of the National Academies of the United States. August 2006.
Ghi chú
[1] Briller, Ly Pham (2008)“Quốc tế hóa hay không quốc tế hóa?Một bước đi quan trọng cho các trường đại học Việt Nam”. Kỷ yếu Hội thảo GDSS Lần thứ hai 2007, TPHCM, Việt Nam.
[2] Knight, J. (1997, Spring). A Shared Vision? Stakeholders’ Perspectives on the Internationalization of Higher Education in Canada. Journal of Studies in International Education. 1 (1), 27-44.
[3] Xem Phạm Thị Ly (2009)“Ấn Độ, từ bán lẻ tri thức tiến lên ĐHĐCQT”, Niên giám khoa học 2009, Viện Nghiên cứu Giáo dục. Phạm Thị Ly (2009) “Con đường xây dựng ĐHĐCQT của Trung Quốc” Tia Sáng 17-3-2009. Vũ Thị Phương Anh, Phạm Thị Ly (2009). “ĐHĐCQT ở Malaysia: từ khát vọng đến thực tiễn”. Tạp chí Phát triển Khoa học Công nghệ Đại học Quốc gia TPHCM số tháng 7-2009
[4] Quản trị có thể được định nghĩa một cách đơn giản là những phương cách tổ chức (chính thức hoặc không chính thức) cho phép một trường đại học ra quyết định và thực hiện những quyết định ấy.
[5] Salmi (2008). “Những thách thức trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế”. Phạm Thị Ly dịch. Bản tin Thông tin Giáo dục Quốc tế số 3-2009
[6] Kết quả xếp hạng năm 2008: Bremen xếp hạng 375 trong THES và 401-500 trong SJTU
[7] Dẫn theo E.C. Subbarao, An Eye for Excellence: Fifty Innovative Years of IIT Kanpur (New Dehli, Harper Collins, 2008) p.3
[8] Xin xem thêm Philip Altbach (2008)“Tri thức như một thứ hàng hóa quốc tế, sự sụp đổ của lợi ích chung”. Phạm Thị Ly dịch. Tư liệu Tham khảo Giáo dục Quốc tế số 2-2009
Phạm Thị Ly
Nguồn: Theo lypham.net, 04/10/2009
"Những sự khác biệt mà không thật sự tạo nên được những sự khác biệt thì không phải là những sự khác biệt"! Đó có lẽ là hạt nhân của triết thuyết dụng hành Mỹ, x